Cái gì cũng có cái giá của nó
Tên gốc: "Chapter 461: Not Without Cost"
GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN
Những ngọn cỏ dày màu xanh thẫm bị uốn cong theo từng bước chân khi tôi đi bộ dưới các tán cây charwood (gỗ than) bên ngoài tổ Hearth. Suy nghĩ trong đầu nặng nề và khô cứng, khiến tôi bị neo cứng xuống đất theo. Tôi tạo ra một lớp màn che phủ tâm trí để ngăn cách suy nghĩ của mình với bé Sylvie và Regis; tôi chưa sẵn sàng để suy nghĩ của người khác len vào đầu mình, cần có thời gian để tiêu hóa hết mọi chuyện vừa xảy ra đã.
Mọi thứ tôi biết được, từ cả tên Kezess lẫn ông Mordain, cứ quay cuồng trong đầu. Có quá nhiều nhánh đường khác nhau cần phải đi cùng một lúc và tôi lại thiếu quá nhiều thông tin.
Những chiếc lá xào xạc trên mấy cành cây ở tầm thấp, và một sinh vật lông xù nhỏ đến mức có thể nằm gọn trong lòng bàn tay tôi đang lết dọc theo mặt dưới cành cây, bám vào vỏ cây bằng những móng vuốt sắc nhọn. Đôi mắt màu bạc như mặt trăng của nó quan sát tôi mà không hề sợ hãi. Mặc dù có vẻ ngoài dễ thương—con thú này trông như một sự kết hợp giữa sóc bay với vượn cáo và dơi gì đấy—tôi có thể cảm nhận được lượng mana ngưng tụ trong cơ thể nó, đủ để phân loại nó là quái mana hạng A.
Sau khi đánh hơi xung quanh được một lúc, con quái mana kia biến mất phía sau cái cây charwood, khiến mắt tôi hướng về phía phần thân rộng lớn của cái cây cao chót vót kia.
“Giá như trách nhiệm của chúng ta tỷ lệ thuận với kích thước cơ thể thì ta có thể giao tất cả những việc này cho mi, phải không?” Tôi nói thành tiếng, những lời hầu như vô nghĩa này phun ra từ bộ não đã làm việc quá sức của mình.
Tôi lơ đãng nhìn sinh vật kia đang lon ton chạy vòng quanh cái cây, làm đứt một chiếc lá ra khỏi cành phía trên đầu tôi cách có vài feet.
Khi chiếc lá sáng màu rơi phất phới xuống như tro cháy bốc lên từ đống lửa, tôi truyền aether vào ấn godrune mới của mình. Một cảm giác âm ấm tỏa ra từ sống lưng, làm tôi cảm thấy khả năng nhận thức của mình tăng lên gấp nhiều lần giúp bản thân giữ vững lập trường quan điểm. Những thông tin tôi nhận được và các vấn đề phải giải quyết giờ được bày xòe ra như một cỗ bài, thật rõ ràng trong nhận thức ngay lúc tâm trí tôi đang chia thành nhiều luồng suy nghĩ cùng một lúc.
Chul đã đối đầu với Cecilia—suýt phải trả giá cho cuộc đụng độ đó bằng mạng sống của mình—nhưng tôi đã chữa lành được vết thương cho cậu ấy. Không chỉ vậy, với viên ngọc tang, cậu ta không chỉ hồi phục mà cái lõi thiếu sức kia có thể còn trở nên mạnh mẽ hơn trước.
Tôi còn lại hai viên ngọc tang. Tôi không biết tại sao lão Lãnh chúa Eccleiah lại đưa chúng cho tôi, nhưng khi chắp nối mọi sự kiện và những cuộc trò chuyện trong buổi lễ trở về của ả Akhilasha lại với nhau, tôi càng chắc chắn rằng lão ấy đã dự kiến được các sự kiện trong buổi lễ, khi lão thể hiện vẻ quan tâm và hành động kiểu “ông bác già ngây thơ” như vậy. Lão này biết nhiều hơn những gì đã thể hiện ra—thậm chí có lẽ lão còn có chút dấu hiệu nhìn thấy được tương lai. Sau cùng thì, tên Kezess đã nói rất chi tiết rằng loài rồng hiếm khi trải nghiệm những viễn ảnh mà bé Sylvie hiện đang có.
Điều đó nghĩa là tôi đã được trao cho ba viên ngọc tang vì một lý do rất cụ thể và tôi sẽ quyết định khi nào và tại sao sử dụng chúng, biết rằng để cứu sống một mạng, thì có khả năng trong tương lai tôi sẽ hết khả năng cứu một mạng sống khác.
Với vương miện ánh sáng tím cháy rực trên đầu, tuy khuất tầm nhìn của mắt nhưng vẫn hiện rất rõ trong tâm trí, tôi hiểu chính xác tại sao một món như vậy lại có giá đến thế và hiếm khi được sử dụng trong văn hóa của người asura.
Song song với những luồng suy nghĩ này, tôi cũng đang có một quan điểm khác về Cecilia.
Việc cô ta hiện diện ở Dicathen là một vấn đề lớn hơn tôi nghĩ lúc đầu. Có lẽ, vì vụ ám sát gã Charon đã thất bại nên chúng phái cô ta đi để hoàn thành công việc, nhưng nếu đúng như thế, thì tôi không hiểu tại sao cô ta lại lảng vảng quanh vùng Beast Glades cơ chứ. Rất có thể tên Agrona đã quyết định nhắm vào ông Mordain, vậy nên Cecilia có thể đã tích cực tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào của những người phượng hoàng khi Chul tình cờ gặp cô ta.
Bất chấp việc ông Mordain là người theo chủ nghĩa hòa bình, thì sự hiện diện của người phượng hoàng vừa là nhân tố khó đoán vừa là mối đe dọa tiềm tàng đối với kế hoạch của tên Agrona. Điều này đã mang lại lợi ích cho tên Agrona được một khoảng thời gian, vì gã Kezess đã chỉ ra rằng số lượng hoặc sức mạnh của các asura hiện diện trong thế giới này—vì một lý do nào đó mà tôi vẫn chưa hiểu—đã trở thành rào cản đối với việc hắn tấn công tên Agrona. Tuy nhiên, có lẽ giờ đây tên Agrona đã quyết định rằng rủi ro đấy không còn tương xứng với lợi ích nhận lại nữa.
Nhưng kịch bản có khả năng xảy ra nhất là Cecilia đang thay mặt tên Agrona tìm đường đến lục địa Epheotus. Tôi thiếu thông tin để suy luận ra một giả thuyết vững vàng về lý do tại sao, mặc dù dưới tác động của ấn Gambit Vua này, tâm trí tôi ngay lập tức suy đoán ra vài lý do khác nhau, mà mỗi cái đều khả dĩ như nhau. Mặc dù vậy, tôi không chắc được bất cứ gì ngoại trừ việc Cecilia là quân nguy hiểm nhất trên bàn cờ, và việc cô ta hiện diện gây gián đoạn và nguy hiểm cho mọi người trên lục địa, kể cả với bọn rồng.
Nhưng Cecilia đã gắng che đi dấu vết của mình, thậm chí đứng ngoài cuộc chiến với Chul, điều đó có nghĩa là chúng không muốn ta biết cô ấy ở đây. Hoặc chúng sợ đẩy cô ta lên tiền tuyến—vì cô ta sẽ trở thành mục tiêu hoặc có thể, tên Agrona không hoàn toàn tin tưởng cô ta—hoặc có khả năng những gì cô ta đang làm có thể bị gián đoạn. Khi bị ông Mordain bắt được, rất có thể cô ta đã rút lui khỏi vùng Beast Glades hoặc rút hoàn toàn khỏi lục địa Dicathen. Cho dù cô ta vẫn còn ở Dicathen, tôi cũng không thể truy đuổi mà không hy sinh nhiều ngày hoặc thậm chí hàng tuần để săn lùng cô ta trong vùng Beast Glades được, và thậm chí khi đấy có khả năng cao là cô ta vẫn trốn được khỏi tôi. Cô ta có một lợi thế rõ ràng: cô ta biết mình đang làm gì, còn tôi thì không.
Tuy nhiên, tôi không thể để cô ta lang thang khắp lục địa này được. Cần phải cảnh báo gã Charon và cử một đội rồng tuần tra lùng sục vùng Beast Glades này.
Khi càng ngày càng có nhiều chủ đề mới xuất hiện, với mỗi ý nghĩ mới đan xen nhau tạo thành một tấm thảm suy tư dệt nên từ những ý tưởng duy lý, thì tôi càng cảm thấy hơi nhói ngứa—thứ cảm giác khó chịu trong tâm trí do vết thương mà Cecilia đã gây ra bằng chính thanh kiếm aether của tôi. Tôi tập trung vào cơn ngứa này, và giống như lũ côn trùng chạy tán loạn dưới ánh đèn, cơn ngứa dường như run lên theo riêng từng chủ đề mà tôi đang nghĩ.
Tôi ngưng dùng ấn Gambit Vua, rũ bỏ cảm giác kỳ lạ kia. Chiếc lá mà mắt tôi đã theo dõi hành trình bay đang lướt qua lướt lại trước mũi tôi rồi tiếp tục rơi sà dần xuống đất.
Tâm trí tôi dường như lộn xộn và mù mịt, những suy nghĩ trở nên mất tập trung. Tôi phải ép thân đứng thẳng lên, và nhận ra những ngón tay mình đang bấu vào ngực, gãi vào chỗ nhói ngứa sâu tận trong lõi vốn đã dịu bớt.
Phải mất chút thời gian sau tôi mới thoát được khỏi ảnh hưởng từ ấn godrune này và lại để tâm đến môi trường quanh đây lần nữa. Sinh vật kia đã trở lại, thậm chí còn bò xuống các cành cây thấp hơn bên dưới và đang nhìn tôi một cách thèm thuồng.
Hít vào một hơi thật sâu, tôi để tâm trí mình quay lại trạng thái sau khi thức tỉnh khỏi cục keystone kia. Chân rời khỏi mặt đất và tôi hơi chao đảo một xíu. Theo bản năng, tôi bám chặt vào những hiểu biết sâu sắc mà mình đã nhận được và bay nổi người lên cách mặt đất chừng vài feet, dần dần quen với cảm giác này. Sau đó, bằng một thứ tốc độ đột ngột, tôi lao qua con quái mana nhỏ xíu, xuyên qua những cành cây vươn dài và những chiếc lá màu cam cháy của cây charwood, rồi bay cao lên không trung qua các tán cây, để cảm giác từ làn gió luồn qua tóc giúp thổi sạch nốt những đoạn suy tư rối rắm về ấn godrune kia vốn còn đang vươn vấn trong tâm trí.
Không giống như khi bay bằng mana, vốn chỉ đơn giản dùng sức mạnh thô và khả năng kiểm soát, là những thứ có được khi chuyển sang lõi trắng, khả năng bay bằng aether đã được kích hoạt thông qua hiểu biết sâu sắc của tôi về ấn Gambit Vua—hay nói đúng hơn, nó là một phần trong hành trình đạt được hiểu biết sâu sắc của tôi, thứ đã nâng cao hiểu biết tự nhiên của tôi về tương tác giữa vật lý của thế giới này với aether trong không khí để bất chấp trọng lực trong vô thức.
Hiệu ứng vẫn như nhau: bằng cách phóng mình qua lượng aether trong không khí, tôi có thể dùng nó để đẩy mình lên không trung và bay. Nhưng trong không khí có ít aether hơn mana nhiều, và cả về mặt cảm giác lẫn hình dung thì đều không tự nhiên, như thể tôi khám phá ra một loại cơ bắp mà mình luôn có nhưng chưa dùng bao giờ. Khi tôi nâng thân hướng lên, tôi sẽ bay, lượng aether này sẽ đẩy tôi khi các vi hạt trượt sang hai bên để tôi bay xuyên qua.
Tôi lại nhìn xuống hàng cây. Nhìn từ bên dưới chúng trông giống như mấy tòa tháp, nhưng từ trên cao, chúng bị thu nhỏ lại. Nhìn gió đang lay động tán cây rừng, tôi chú ý đến cảm giác như cơ thể bị kéo sụp xuống do đôi chút tác dụng phụ nho nhỏ từ ấn Gambit Vua để lại trong hệ thần kinh. Tôi nghĩ, mình sẽ cần phải thận trọng khi sử dụng thứ sức mạnh mới này, đồng thời để ý đến cảm giác của nó sau khi dùng.
Bất chấp gánh nặng từ mọi thứ đang đè lên vai, tôi không khỏi mỉm cười khi phóng qua những hàng cây và bay về phía nam, canh chỉnh hướng quẹo trước khi nghiêng người tới trước rồi bay đi trên đỉnh những ngọn cây, gió trở nên mạnh và ẩm ướt khi tạt vào người.
Và bởi vậy, khi tôi ép bản thân bay ngày càng nhanh hơn, bung ra khí tức aether mạnh mẽ để xua đuổi bất kỳ con quái mana đủ mạnh nào muốn lao vào mình, tôi gỡ bỏ lớp rèm che tâm trí và vươn ý nghĩ tới thăm dò tâm trí Regis và bé Sylvie.
‘Cậu ta quay lại rồi,’ giọng Regis vang lên trong đầu tôi gần như tức thì.
‘Ba Arthur à, suy nghĩ của ba thật ảm đạm,’ bé Sylvie tiếp lời. ‘Chuyện gì đã xảy ra vậy?’
Tôi nhanh chóng giải thích mọi chuyện đã xảy ra kể từ đoạn Chul được chữa lành.
Regis nói với vẻ quyến rũ như thường lệ: ‘Với ai đấy vừa trúng số được cái vé “dọn cứt xong” như cậu, thì tôi chẳng cảm nhận được điểm tích cực gì ở chuyện này cả.’
(Người dịch: Ý Regis là tụi kia gây ra tùm lum chuyện cho Art về gánh, thì chả thấy sự việc vừa kể có gì hay ho cả)
Tôi nghĩ: có thể tôi đã khám phá ra một thứ sức mạnh cho phép bản thân suy nghĩ nhiều việc cùng một lúc, nhưng cái tôi thực sự cần là khả năng ở nhiều nơi cùng một lúc. Ngoài việc đấy ra, tôi vẫn cần nhiều lời đáp cho mọi chuyện.
Regis từ trước đấy đã ở cùng gã Oludari và hiện đang ở tại lâu đài bay canh giữ phòng giam của lão Vritra này, cậu ta tỏ ra rạng rỡ hẳn lên. ‘Điều đó nghĩa là cậu đang tiến tới đây sao? Tôi sẵn lòng đánh đổi hết thảy các nàng quỷ ngực bự ở Alacrya để ra khỏi đây. Tôi nghĩ mình có thể chết vì chán mất.’
Bé Sylvie xen vào: ‘Hết thảy bọn họ luôn à?’ giọng cô bé trong tâm trí leng keng như ai đó lắc chuông bạc.
‘Ôi, dĩ nhiên là với Tiểu thư Caera xinh đẹp thì không đâu,’ cậu ta trả lời với vẻ thủ thế.
Tôi lắc đầu. Tôi cho rằng nếu so với mọi sự khó chịu thì thân thuộc với cậu nhất là đít con rết aether, phải không? Còn giờ, đổi chủ đề giùm…
Nội chuyện bay được là đáng phấn khởi rồi, Regis và bé Sylvie đã giúp giảm bớt gánh nặng cho những lo lắng chất chồng thành đống của tôi, khiến chúng trôi qua nhanh hơn. Tuy nhiên, với rất nhiều suy nghĩ đang chiếm chỗ trong đầu và hiện tôi chỉ đang xử lý từng việc một do không kích hoạt ấn Gambit Vua, thì tôi lại cảm thấy nhẹ nhõm khi tường cao mái nhọn của lâu đài bay hiện ra trong tầm mắt, thấp thoáng giữa làn sương mù như một chú chim săn mồi khổng lồ.
Lớp trường biến dạng từng giúp che giấu lâu đài đã bị vô hiệu hóa từ lâu, và hai con rồng lớn—một con lấp lánh như lam ngọc, con còn lại có màu xanh lục xỉn của đá rêu—đang bay vòng quanh bên ngoài. Phải mất một lúc chúng mới chú ý đến tôi, vì tôi thiếu dấu hiệu mana làm bọn này chỉ cảm nhận được lúc tôi lại gần, nhưng khi tên rồng màu xanh thấy tôi, cả hai con đều lao mạnh tới và bay lướt về phía tôi.
Con rồng sapphire nói: “Gượm đã, ai—à, là tên hạ đẳng với cặp mắt vàng,” ả ta vỗ cánh để giữ nguyên vị trí đang bay giữa không trung. “Bọn ta được lệnh phải chờ ngươi. Theo ta.”
Ả xoay vòng người, bay tới chỗ cánh cửa dạng sập xuống đang mở—cũng chính là cánh cửa mà tôi và bé Sylvie thường dùng để ra vào lâu đài hồi chiến tranh. Khi tôi đáp xuống sau lưng, cô ta biến hình, cơ thể co lại để hiện thành hình một người phụ nữ dáng đẹp như tượng tạc với mái tóc màu ngọc trai và bộ giáp trùng màu vảy của cô ả ở dạng rồng.
“Đến đây, ta sẽ dẫn ngươi đến gặp Ngài Bảo Hộ Charon và tên tù nhân,” cô ả nói với vẻ cứng nhắc, đôi mắt xanh dương sâu thăm thẳm với tròng mắt lấm tấm những hạt bụi trắng lấp lánh, đang quan sát tôi một cách thận trọng.
“Tôi biết đường rồi.” Tôi sải bước ngang qua cô ta, hướng tới đại sảnh gần đó. “Có rắc rối gì không?”
Cô ả vội đuổi theo sau và đi lên ngang cạnh tôi. “Một số trinh sát đã phát hiện ra một đám cháy rừng, có thể là nơi vừa diễn ra một trận chiến phép thuật căng thẳng. Nhưng bọn ta không tìm được kẻ nào gây ra cả.”
Ghi nhận ý kiến của cô ả bằng một cái gật đầu, tôi tự lục tìm khắp lâu đài, cảm nhận được những dấu hiệu mana mạnh mẽ đang tỏa ra sức mạnh. Gã Charon và tên Windsom ở sâu dưới đáy lâu đài này, chỗ nhà tù mà tôi biết: cũng chính là nơi đã từng giam giữ thằng retainer Uto vói lão Rahdeas, tên người lùn phản bội đã giúp Nico thâm nhập vào lục địa Dicathen dưới danh nghĩa Elijah.
Tôi không thường nghĩ đến Elijah và hiện giờ tôi cũng không cho phép mình làm vậy. Thật quá kỳ lạ—quá đau đớn—khi biết rằng người bạn thân nhất của tôi trên thế giới này thậm chí chưa từng tồn tại mà chỉ là một mảnh tưởng tượng trong tâm trí méo mó của tên Agrona.
Tính tổng cộng, tôi cảm nhận có năm con rồng khác ngoài gã Charon và tên Windsom, cũng như có dấu hiệu mana quen thuộc của một asura chủng khổng thần (titan). Tôi không biết lão Wren Kain đang làm gì ở đó—lão ấy nên quay lại thành phố Vildorial, hoàn thành dự án mà lão và Gideon đang thực hiện—nhưng rồi tôi sẽ sớm biết thôi.
Khi đi xuống phía dưới lâu đài, tôi và ả hộ tống bước vào một hành lang rộng khiến tôi nhanh dừng lại. Ký ức về lần cuối tôi sống ở lâu đài này hiện lên dữ dội, và tôi nhớ lại những thi thể nằm rải rác trên sàn, một nửa số đấy bị mắc kẹt trong đống đổ nát đã nghiền nát họ.
Điều này thực sự không xảy ra với tôi lần trước, nhưng đây là lần đầu tôi quay lại lâu đài bay kể từ hồi đó. Kể từ hồi gặp thằng Cadell.
“Nó đã được sửa chữa rồi,” tôi tự nói to thành tiếng với chính mình.
“Phải,” cô ả hộ tống nói với vẻ cứng đờ. “Lâu đài bay này có hình dạng tồi tàn và cần phải cải tiến đáng kể để phù hợp với những con rồng của tộc Indrath.”
Tôi chà bàn tay vào bức tường đã được tân trang lại, lòng phẫn nộ gây đau nhói dâng lên khi nghĩ rằng mọi dấu vết của ông Buhnd và tất cả những người khác đã chiến đấu rồi hy sinh mạng sống ở đây đều đã biến mất.
Đến tầng nhà tù, ả rồng hộ tống để tôi đi vào nhà ngục có khóa nhưng không đi theo mà đứng ngoài gác. Trong phòng canh gác sau cánh cửa này, tôi thấy gã Charon, tên Windsom và lão Wren Kain đang đợi. Tôi có thể cảm nhận được Regis đang ở sâu hơn tận bên trong, dõi mắt quan sát tù nhân của bọn tôi.
Gã Charon nhìn tôi với vẻ hứng thú rõ rệt. “À. Arthur. Windsom từ nãy đến giờ đã giúp bọn ta biết thêm về cuộc hành trình đến lục địa Epheotus của ngươi.”
Lão Wren nói: “Tiếc cho ả rồng trẻ tuổi,” giọng điệu không hề có chút buồn bã thực sự nào cả. “Dĩ nhiên, gia tộc của con bé sẽ nhận được nhiều bồi thường hơn cho cái chết của nó so với mọi gia tộc của người hạ đẳng bị tiêu diệt trong trận chiến cộng gộp lại, thế nên ta cho rằng điều đó là có đấy.”
Tôi lục trong ánh mắt của lão Wren, tìm xem có ẩn ý gì không trong đôi mắt đen bị che đi nửa phần dưới bờm tóc bóng loáng dầu mỡ phủ rũ xuống của lão.
Vẻ mặt tôi hẳn đã làm lộ ra suy nghĩ của mình bởi vì lão Wren cười lớn: “Charon mời ta đến nói chuyện với tên basilisk kia.”
Tôi đáp: “Tôi không biết rằng hai người quen nhau cơ đấy,” nhìn vào gã rồng đầy sẹo kia.
“Ồ phải rồi, ta và Charon đã biết nhau lâu rồi,” lão Wren trả lời với vẻ hài hước đá đểu. “So với một kẻ thuộc tộc Indrath… thì hắn ta không tệ đâu”
Tên Windsom trừng mắt nhìn lão Wren, nhưng gã Charon chỉ cười khúc khích.
“Dù sao thì, ta đã và đang giúp đỡ—cố giúp bọn rồng đây hiểu được tên Oludari, nhưng hắn ta đã cố tình giả khờ giả điên kể từ lúc ngươi rời đi.” lão Wren khoanh tay lại, một hành động làm bộ điệu khom lưng của lão trở nên cường điệu hơn. “Với kẻ được cho là thiên tài như hắn, thì hẳn là hắn ta đang tạo ra ấn tượng rằng mình là một tên ngốc mất trí.”
Tôi đã cân nhắc về chuyện này. Việc tôi đang đớp lấy lời của một tên basilisk mất trí, kẻ có đủ mọi lý do để nói dối và lôi kéo tôi chống lại thằng chúa tể của mọi chủng asura—vốn là tên đồng minh của tôi—làm tôi phải bận tâm. Nhưng rồi, tôi cũng biết rằng mình không thể chấp nhận bất kỳ điều gì mà thằng Kezess nói ra ngoài mặt cả. Mọi cuộc trò chuyện với hắn đều giống như đánh một ván cờ Chúa tể Tranh đấu vậy, ngoại trừ việc tôi không nhất thiết phải biết mục tiêu của ván chơi đấy là gì. Còn với gã Oludari này, mọi chuyện rõ ràng hơn nhiều.
(Nguyên văn: “I was pitting the word of a lunatic basilisk” mình có thể khẳng định không có cụm ‘pit the word’ trong tiếng Anh, tác giả đã đánh máy sai nhưng mình không đoán được từ sai chỗ này, nên dịch dựa trên context cả đoạn)
“Thật không may, nhưng dù sao thì tôi cũng đã đến để nói chuyện với tên Oludari rồi.” Tôi bắt gặp cặp mắt phi nhân lạ đời (otherworldly) của tên Windsom đang nhìn. “Sau đó, theo thỏa thuận của tôi với lão Kezess, các người có thể thoải mái đưa hắn quay lại lục địa Epheotus.”
Bằng vẻ vô cảm, tên Windsom trả lời: “À, ấy vậy mà tôi đã sợ rằng cậu sẽ phải mất hàng tuần, nếu không phải nói là hàng tháng, để nói vòng vo như những gì mà lũ hạ đẳng các cậu rất thích làm. Tôi rất vui khi thấy cậu trở nên nhạy cảm dẫu chỉ mỗi lần này, Arthur à.”
Khi tôi không đáp lời ngoại trừ ném tới hắn một cái lườm lạnh lùng, gã Charon hắng giọng và ra hiệu cho tôi đi theo. Gã dẫn nhóm chúng tôi vào nhà tù, nơi trống không ngoại trừ một phòng giam đặc biệt được thiết kế lại để dành riêng cho lão basilisk kia. Gã Oludari bị xích vào tường với hai cánh tay dang ra hai bên, mấy cái còng phủ cổ tự bằng kim loại xỉn màu trói lão ta ở cả cổ tay và mắt cá chân lẫn quanh cổ họng. Khi lão cử động, những chiếc sừng hình xoắn ốc va lách cách vào tường đá bị ếm phong ấn ở sau lưng.
Ngó thấy tôi qua ổ cửa sổ nhỏ có song sắt nằm trên cánh cửa dẫn vào phòng giam, lão ta cười toe toét và môi bắt đầu cử động, nhưng tôi chẳng thể nghe được lời nào cho đến khi gã Charon truyền một luồng mana vào cửa và nó nhẹ mở ra.
“—để cứu ta khỏi sự nhàm chán của lũ rồng này,” lão ta đang nói, nửa câu đầu nghe không được do phòng giam này bị ếm ấn bảo vệ. Nụ cười giả tạo kia vụt tắt khi đôi mắt sáng rực của lão nhìn dúi sâu vào mắt tôi. “Vậy thế nào rồi, con người kia? Cậu đã tỉnh táo chưa? Liệu ta có được trở về quê hương và nhận được sự bảo vệ từ chúa tể loài rồng không?”
Để ý thấy vẻ hơi phòng thủ thêm vào những lời đòi hỏi của hắn, tôi bước vào phòng giam và nhìn quanh.
Regis đang nằm cuộn tròn người thành hình quả bóng to đùng trên nền đá cứng. Đôi mắt uể oải mở ra khi tôi nhìn xuống chỗ cậu ấy, và cậu ta nháy mắt. “Tôi đồng ý với tên basilisk kia về việc này. Xin hãy cứu chúng tôi khỏi sự nhàm chán khi ở bên nhau đi.”
Lão Oludari tặc lưỡi. “Ta thà nghĩ rằng mi thú vị hơn toàn bộ lũ asura tự cao tự đại này. Thật đau lòng khi mi không chia sẻ chung cảm xúc này với ta.”
Chúng để cậu ở trong phòng giam với hắn à? Tôi hỏi Regis, thăm dò tâm trí cậu ấy về trải nghiệm trong vài ngày qua.
‘Chúng không “cho phép” tôi có mặt ở đây để thẩm vấn,’ Regis gửi suy nghĩ lại, cẩn thận tránh nhìn tên Windsom và gã Charon đứng sau lưng tôi. ‘Nhưng chúng thường xuyên lớn tiếng phàn nàn về việc tên Oludari “phát điên” và vô lý đến nhường nào.’
Cậu không nghĩ hắn ta phát điên sao?
‘Có gì đó nọ kia giống như con cáo với cái chuồng gà vậy,’ Regis ôn tồn nghĩ.
(Người dịch: Regis đề cập đến câu thành ngữ “fox guarding the hen house” nghĩa là “trao trứng cho ác” ngụ ý tổng thể câu chỉ lão Oludari đang dụ lũ rồng bực mình)
Bước đến gần gã Vritra đang bị xích, tôi để ánh mắt mình quét qua hắn, dừng lại chỗ mớ xiềng xích. “Tôi đã nói chuyện với Chúa tể Indrath và lão ấy đã đồng ý cho phép ông trở lại Epheotus với tư cách là một tù nhân. Nhưng chi tiết về việc quay lại đó—hỡi mục tiêu của gã Chúa tể Tối cao à, việc ông phải nán lại thế giới của bọn tôi trong bao lâu—đều tùy thuộc vào tôi. Tương lai của ông phụ thuộc vào việc ông trả lời các câu hỏi của tôi, một cách đầy đủ và không bày ra bất kỳ trò gì hết.” Tôi ngừng lại để lão ta tiêu hóa mấy lời tôi vừa nói. “Tôi vẫn chưa quên lời đe dọa trước đây của mình: ngăn tên Agrona chạm tay vào ông vẫn là ưu tiên hàng đầu của tôi, và nếu việc giết ông có ý nghĩa hơn gửi ông đến Epheotus, thì tôi sẽ không ngại ngần làm vậy đâu.”
Tên Windsom đang cử động phía đằng sau tôi, nhưng lão Oludari vẫn thản nhiên, chỉ trả lời bằng một cái gật đầu hiểu ý.
Tôi muốn hỏi hắn ta thêm mà không có gã Charon và tên Windsom hiện diện, nhưng tôi không để bọn này có quyền từ chối lời của tôi bằng cách đi hỏi, vì tôi đã biết câu trả lời của bọn chúng rồi.
Tôi khoanh tay lại, đứng với tư thế rộng người hơn và tỏ ra đang cân nhắc lời nói. Tôi biết mình muốn tìm hiểu điều gì, nhưng việc moi thông tin từ gã Oludari mà không khiến cả hắn hay lũ rồng nghi ngờ là một việc làm đòi hỏi hoạt động rất tinh vi khéo léo.
“Tại sao tên Agrona lại muốn chiếm Epheotus?” Tôi hỏi sau vài giây dài trôi qua. “Mục đích của hắn sau tất cả mọi chuyện này là gì? Đơn giản là trả thù lão Kezess và các đại gia tộc khác thôi à?”
Lão Oludari khẽ cau mày, đôi mắt nhanh chóng theo dõi các nét trên khắp gương mặt tôi. Trong đầu lão dường như đang suy nghĩ tìm lời đáp gì đấy. Cuối cùng, lão nói: “Hỏi hay đấy, vì lý do gì mà gã Chúa tể Tối cao lại cần kiểm soát Epheotus à? Nơi bị vây quanh bởi các asura từ những chủng tộc khác, nhiều kẻ già cả hơn và mạnh mẽ hơn hắn ta về mặt phép thuật ư? Ta đã tưởng tượng việc trở về quê hương sẽ là cơn ác mộng tồi tệ nhất của tên Agrona. Hắn ta đã chẳng dành hàng thế kỷ để lũ hạ đẳng và đám asura lai căng vây quanh mình mà chẳng có lý do gì đâu.”
Lão dừng lại, ánh mắt liếc sang hai tên rồng sau lưng tôi. “Bất kỳ ai đã nói điều đấy với cậu, có lẽ là, đều đang cố gắng bóp méo quan điểm của cậu về bức tranh tổng thể của cuộc xung đột này. Đây là xung đột lớn hơn giữa gã Agrona và đám Indrath.”
“Thật xuẩn ngốc,” tên Windsom chế giễu. “Tất nhiên tên Agrona đang cố quay về quê hương của bọn ta rồi. Chẳng còn lý do nào khác để gây chiến chống lại lục địa Epheotus như những gì hắn ta đã làm cả. Toàn bộ nỗ lực của hắn trong việc chiếm Dicathen chỉ đơn giản là tạo tiền đề cho một cuộc xung đột lớn hơn, như chúng ta vốn đã biết rõ.” Giọng điệu hắn cứng nhắc, gần như ép phải thốt ra lời.
Tôi giơ tay ra hiệu im lặng, liếc nhìn ngang qua vai. “Tôi mong hoãn phần bình luận bổ sung lại. Tôi cần tập trung đã.” Chuẩn bị tinh thần cho cơn lũ kích thích sắp trào dâng, tôi kích hoạt ấn Gambit Vua.
Nhìn vào tròng mắt lão Oludari, tôi thấy ánh sáng đang trào ra xung quanh mình, tụ lại và hợp nhất cho đến khi có một vương miện với viền gồm nhiều đỉnh nhọn tỏa ra ánh sáng trong vắt nổi lơ lửng trên đầu tóc tôi, biến màu tóc vàng nhạt thành màu trắng sáng rực.
Nếp nhăn ở hai bên cánh mũi lão ta trắng bệch ra khi chúng phồng lên, và đồng tử trong mắt lão, vốn đang tập trung hoàn toàn vào vương miện phát sáng này, giãn ra chừng một phần inch. Vùng da quanh mắt hơi nhăn lại khi lão ta nheo mắt vì tiếp xúc ánh sáng.
Không khí đang di chuyển khi bị nén qua một khe hở trên đá ở đâu đấy, và một vài sợi tóc bù xù của lão Oludari đung đưa. “Có một kẽ hở ở đâu đó trong kiến trúc đá của phòng giam này.” Giọng tôi nói nghe vang vọng do nó được lọc qua các khía cạnh tăng cường tâm trí của ấn Gambit Vua, cả hai kiểu giọng là tiếng tôi nói và cả tiếng tôi nghe đều rung động lan truyền trong không khí.
Ẩn sau mùi đất đá bụi bặm và cỏ cây thoang thoảng xa xăm từ tận vùng Beast Glades, lão Oludari còn có mùi kim loại, ozone cháy trên người và cả nét mồ hôi rất mờ nhạt thể hiện vẻ lo lắng. Gã Charon có mùi da thuộc cũ, mùi dầu bôi lưỡi dao và mùi máu tươi mới sát sinh, trong khi tên Windsom tự xức vào người mình một thứ nước hoa nào đó không che giấu nổi hương thơm từ mùi đất của Núi Geolus xa xôi.
(Nguyên văn: “white Windsom scented himself” Tác giả đánh máy sai từ ‘while’ thành ‘white’)
‘Ụa, sao đột nhiên tôi lại ngửi thấy mùi của mình thế? Và tại sao tôi lại có mùi như diêm sinh và
bánh mì cuộn hương quế1
vậy?’ Regis phóng suy nghĩ tới tâm trí tôi, cậu ta nhẹ lắc đầu khi những suy nghĩ của tôi được khuếch đại bởi ấn godrune này tự do truyền qua đầu cậu ấy.
(Nguyên văn: “cinnamon rolls” là món bánh mì cuộn hương quế sẽ có hình minh họa cuối bài)
Đằng sau lưng, tôi cảm thấy gã Charon quay lại nhìn tên Windsom, kẻ đang nhíu mày và căng cơ quai hàm ra khi nhìn chằm chằm vào lưng tôi.
“Trước đây ông đã nói rằng tên Agrona đang cố thâu tóm quyền lực. Rằng hắn ta biết điều gì đó. Rằng kiến thức này được kết nối với các chiều không gian bị phân tách thành các tầng nấc, thứ đã tạo nên hiện thực này. Ông đã nói là sẽ kể cho tôi nghe mọi điều mà ông biết.” Lời tôi nói găm vào lão ấy như ai đó lấy mũi giáo mà đâm. “Nếu hiểu biết hiện tại của tôi mà thiếu sót thì chỉnh lại nó đi.”
(Nguyên văn: “You said before that Agrona is attempting to concentrate power” Vì tiếng Việt từ ‘power’ có nhiều cách hiểu nên mình không thể hiểu ‘concentrate power’ ở đây nghĩa “thâu tóm quyền lực” hay “tập trung sức mạnh”. Trong khi ở tiếng Việt, hai cụm này đem lại hai cách hiểu khác nhau. Có thể Oludari ẩn ý một trong hai hoặc cả hai điều này)
Hướng mắt gã Oludari dường như … đảo cong xuống dưới đất, như thể lão đang ép mắt mình phải nhìn đúng nơi, ngăn chúng lướt qua vai phải tôi liếc tới gã Charon. Lão nói: “Tất nhiên rồi, thưa bệ hạ,” cố chèn vào một vẻ thật thích thú trong tông giọng của mình, giống như để che đi sự căng thẳng đang bóp nghẹt cổ họng khiến lời lẽ lão thốt ra trở nên méo đi. “Phải, như ta đã nói, hắn ta đang tìm kiếm sức mạnh. Không phải để thành một vị chiến chúa (warlord) và cai trị cả Epheotus đâu, mà để hủy diệt mọi thứ. Giống như một con khổng sư (world lion) vậy, hắn sẽ ăn thịt ngay cả đàn con non của mình—là người dân Alacrya—để thống trị. Nhưng chỉ sau khi hắn đã sục sạo khắp Dicathen và Epheotus thôi.”
Tôi so sánh lời lẽ và giọng điệu của lão hiện nay với những gì lão đã từng nói và cả cách lão nói hồi trước, mổ xẻ ý nghĩa và âm sắc trong khi tôi đang thiết lập cơ sở xác định đâu là sự thật đâu là dối trá.
Regis đã ngồi dậy, cặp mắt chao đảo và hai tròng mắt xéo xẹo nhau. ‘Hông, không thể—ồ, chuyện này kinh khủng thật. Tôi nghĩ mình sắp nổ tung ra nhiều mảnh mất…’ Tâm trí cậu ấy tách rời khỏi tâm trí tôi, tạo một rào cản chắn giữa hai chúng tôi. Tôi có thể cảm nhận được các rìa cạnh của bức tường chắn tâm trí này, những vết rạn của nó và biết rằng mình có thể xuyên qua được nếu cần, nhưng không nhất thiết phải ép buộc Regis tham gia vào cuộc trò chuyện này, cho dù góc nhìn quan điểm của cậu ấy có thể giúp tôi mở rộng góc nhìn quan điểm của mình.
Xa xôi đâu đấy, tôi cảm thấy tâm trí bé Sylvie cũng tự dựng khiên chắn tương tự. Tôi đã để ý thấy rằng tác dụng của ấn godrune này không mở rộng hiệu quả của nó lên các đồng đội của tôi được.
“Mặc dù ta rất không muốn trở thành nạn nhân của cái chủ nghĩa ăn thịt đồng loại trần tục như thế đâu,” lão Oludari tiếp tục: “nhưng ta đích thực nghĩ rằng thật thú vị vô cùng khi thấy cậu quá vui vẻ nắm đuôi rồng, rồi để lão Chúa tể tộc Indrath lôi đến bất cứ chỗ nào mà hắn muốn, nhất là nếu suy xét về các tội ác của chính lão ấy thì cũng to lớn vĩ đại như gã Agrona vậy thôi, đúng không?”
“Cẩn thận cái mồm ngươi đấy, thằng Vritra kia,” tên Windsom nạt ngang, tiến tới một bước đầy vẻ đe dọa khi lão Oludari nói xấu thằng Kezess.
Tôi cảm thấy mình muốn cau mày nhưng kịp ngừng nó lại trước khi biểu cảm này lộ rõ. Có độ cao trong giọng điệu của tên Windsom, một nét gợi ý rằng… đây là một phản ứng đã được tính toán từ trước ư?
Tôi nói với lão Oludari: “Hãy kể thêm cho tôi nghe về các tầng nấc kia đi,” dùng ánh mắt liếc nhanh ngang vai để cản không cho tên Windsom tiến lại gần.
Lão Oludari lê lưỡi quẹt qua lại sau hàm răng mình, các ngón tay căng ra, nhưng lão kìm chúng lại để không bị co giật. Lão này có khả năng tự kiểm soát thể chất của bản thân rất hiệu quả, một khả năng mà trước đây lão chưa từng bộc lộ ra lúc bị bọn Wraith bắt giữ. Điều này cho thấy lúc trước khi bị lũ rồng bắt, sự tổn thương về thể xác thậm chí có thể dẫn đến cái chết đã làm lão ấy sợ hãi đến sâu sắc. Và, tuy đang căng thẳng thế nhưng hiện giờ lão không hề lo sợ cho tính mạng của mình. “Chính cậu cũng đến từ một thế giới khác, phải chứ?” lão nói: “Ở đó cậu có một loại phép thuật khác—tên là ki, ta tin rằng mình nghe được như thế. Nhưng ngay cả những tên tái sinh khác cũng đều không truyền ki được khi chúng đến với thế giới này, bởi vì nó là một loại phép thuật khác với mana, đòi hỏi một bầu khí quyển lẫn sinh học khác biệt.”
Lão Wren chỉnh lại tư thế đứng, tạo ra tiếng leng keng kèn kẹt trong áo khoác, giống như hai chuỗi dây xích cà vào nhau.
Lão Oludari nói nhanh hơn khi tiếp tục, chú tâm vào câu chuyện mình đang kể. “Một thế giới khác hẳn. Một cấu trúc phép thuật hoàn toàn khác hẳn. Hãy tưởng tượng về nó đi. Người ở Alacrya thường bị giới hạn vào một chú phép duy nhất và các dạng thức biến đổi của nó, còn người ở lục địa cậu thì chỉ bị giới hạn bởi một thuộc tính mana. Người dân của ta kiểm soát được tất cả bốn thuộc tính chính, nhưng chỉ thông qua lăng kính hiểu biết của chính bọn ta thôi, và cái lăng kính đấy mấy cậu gọi là thuộc tính phân rã (decay). Lũ rồng có thể sử dụng mana thuần và chập chững dùng những thuật aether nhỏ bé của chúng, trong khi đám djinn viết nên mọi thứ bằng aether cứ như thể tụi này đã khám phá ra ngôn ngữ bản địa mà thực tại thế giới này dùng để giao tiếp vậy.”
Lão thở dài kinh ngạc, như thể vừa nói điều gì đó uyên thâm lắm. Tôi để ý thấy lão ta chỉ nói toàn những điều tôi biết rồi, và khi đã biết thì tôi lại cảm thấy ngứa ngáy. Độ ngứa không nằm trong lõi mà đang bò dọc theo dòng suy nghĩ, ẩn sâu trong các nếp nhăn ở não tôi.
“Đây là những lớp mà ta đã nói đến: mana, aether, thậm chí cả ki. Có lẽ ngoài kia cũng còn những loại phép thuật khác nữa”—âm vực giọng lão được điều chỉnh rất nhẹ, và cặp mắt lão lặp lại cái vẻ căng ra mà không nhìn cong xuống dưới đất như trước—“nhưng bất chấp điều đó, gã Agrona chưa bao giờ hài lòng với cái mớ kiến thức chủng basilisks vốn có. Tại sao chúng ta chỉ có thể dùng hiệu quả mỗi mana thuộc tính phân rã thôi trong khi lẽ ra bọn ta phải có tất cả chứ.”
Lời giải thích này không khớp với mấy câu nói trước đây của lão. Nghe có vẻ cũng có chút liên hệ với nhau đấy và thậm chí có thể đúng nữa, nhưng dù sao cũng gây rối rắm.
“Ông đã là kẻ thù của lão Kezess suốt một thời gian dài. Ông biết chuyện gì đã xảy ra với người djinn. Nói tôi nghe, ông nghĩ mục tiêu tổng thể của lão Kezess là gì?”
Thái độ cau có của tên Windsom vang lên rõ rệt. “Arthur, đây không phải là hướng đặt câu hỏi phù hợp—”
Lão Oludari khịt mũi thích thú, ngắt lời tên Windsom. “Hiển nhiên là lão ta đang đóng vai ‘Vua ngự trên núi’ rồi.”
“Thằng basilisk này đang cố làm cậu nhầm lẫn và đẩy cậu đi chống lại ngài Chúa tể Indrath đấy,” tên Windsom nói với tốc độ quá nhanh. “Tôi khuyên cậu không nên tiếp xúc thêm với hắn nữa.”
Lần này tôi chắc chắn hơn. Những lời thằng này nói có thể không được biên sẵn ra, nhưng chúng đã được dự tính từ trước.
Vài luồng suy nghĩ rối rắm bện vào nhau, và mỗi luồng lại khuếch đại cảm giác ngứa ngáy như thể có sâu bọ đang bò gây rung cả lõi lẫn tâm trí. Cảm giác ngứa nhói này vang vọng từ mỗi dòng suy nghĩ đang đồng thời diễn ra, bản thân nó không khác gì một cơn khó chịu nhẹ, nhưng tôi sử dụng ấn Gambit Vua càng lâu và kích hoạt càng nhiều luồng suy nghĩ hoạt động đồng thời thì cảm giác này càng trở nên mãnh liệt hơn.
Gã Charon hắng giọng và đặt tay lên vai tôi. “Arthur, có lẽ chúng ta nên nghỉ ngơi một chút. Ngươi có vẻ… gắng sức quá.”
Vài dấu hiệu nào đấy của vẻ khó chịu ngày càng tăng hẳn đã lộ ra trên nét mặt tôi. Thế nên tôi kiểm soát kĩ các phần não chịu trách nhiệm cho những chuyển động cả có mục đích lẫn vô thức trên khuôn mặt và cơ thể mình, buộc nhịp tim của bản thân chậm lại, vẻ mặt dịu đi và mọi hơi thở phải trở nên bình tĩnh và cân bằng.
“Windsom, tại sao ông lại tặng Ellie một con gấu giám hộ vậy?” tôi đột ngột hỏi, lần theo một chủ đề mới trong khi vẫn duy trì những chủ đề khác trong đầu.
Có một sự do dự, một sự thay đổi trong hơi thở của hắn. Tôi quay đầu lại chừng vài độ, điều chỉnh góc nghiêng của tai để nghe rõ hơn những thay đổi ở mức vi mô về dáng điệu của hắn mà thông thường mấy điều này sẽ bị mọi thứ khác át đi.
“Tôi đã cố làm cho cậu thấy thoải mái để rời khỏi gia đình mình. Ngay từ lúc đó, tôi đã biết tính cách lo bảo vệ cho gia đình của cậu đến cỡ nào. Đủ nhiều để từ bỏ trải nghiệm huấn luyện ở Epheotus nếu cậu quá lo lắng cho gia đình mình.”
Tôi đánh giá rằng, đấy là một câu trả lời trung thực, nhưng trước khi cất lời hắn đã phải quyết định xem mình sẽ nói thật cho câu hỏi đấy đến mức nào.
“Lão Kezess sẽ làm gì với gã Oludari khi hắn ta trở về Epheotus?” Tôi nhanh chóng hỏi tiếp.
Tôi đã nghe câu trả lời của hắn, nhưng tôi không lo về lời lẽ, mà thay vào đó tôi lắng nghe tông giọng, âm điệu. Nhưng thực sự không phải tôi đang tập trung vào tên Windsom mà là đang đánh giá mức độ quan tâm của gã Charon khi chúng tôi chuyển chủ đề.
Tôi đứng chờ, để cho sự im lặng kéo dài vượt quá mức khó chịu, quan sát và lắng nghe mọi thứ mà ba gã asura đã thực hiện, thậm chí còn lập cả danh mục các chuyển động vi mô của Regis nữa.
Lần đầu tiên, có điều gì đó làm tôi mất tập trung, và suy nghĩ của tôi chao đảo: cơn ngứa nhói giờ đã mạnh hơn, giống như một đàn kiến đang gặm nhấm tôi từ bên trong người vậy.
Nhưng tôi chắc chắn rằng: gã Charon đã đạt được thỏa thuận gì đó với lão Oludari. Các câu trả lời của lão Vritra này được thiết kế đặc biệt để gây khó hiểu cho các sự thật nhất định. Lão ta sẽ được trở về Epheotus và được thưởng theo một cách mà tôi không thể cung cấp cho lão tương đương được.
Tôi chuyển hướng nhằm đảm bảo sẽ đề cập đến những chủ đề quan trọng khác trước khi không duy trì nổi hoạt động của cái ấn godrune này nữa, tôi hỏi: “Di Sản… trước đây, ông đã cho rằng cô ta không phải là vũ khí mà là một công cụ. Cecilia là chìa khóa giúp Agrona hấp thụ mana trực tiếp từ các Chúa tể khác, nhưng không chỉ có thế. Hắn đang tìm cách mở khóa sức mạnh mới cho chính mình. Nói cho tôi biết, liệu cô ấy có sống sót qua quá trình này không?”
Một nụ cười bẽn lẽn nở trên mặt lão Oludari. “Cậu đang hỏi về kẻ tái sinh hay vật chứa thế?”
“Ông đã chú ý đến chuyện này từ trước rồi. Ông cho rằng mình thông minh, nghĩa là ông đã lên kế hoạch cho điều tồi tệ nhất.” Tôi cố nén cơn rùng mình và phải gắng lắm mới giữ được tay mình lại để không gãi vào chỗ xương ức. “Làm thế nào ông có thể chống lại ả Di Sản nếu cô ta đuổi theo ông chứ?”
Lão Oludari nhướng một bên mày, miệng hơi hé mở vì ngạc nhiên. Lão suy nghĩ một lúc, nhưng ánh nhìn không hề rời khỏi mắt tôi. “Hoàn toàn làm chủ được mana. Không còn lõi, nên toàn bộ cơ thể con ấy hoạt động và phản ứng với mana. Và con bé cực kỳ nhạy cảm với mana—điều mà ta nghĩ có thể dùng để chống lại con này. Tính sáng tạo của con nhỏ đấy không cao vậy nên nó không tận dụng được hết điểm mạnh của mình và con bé có tinh thần yếu đuối. Nếu ai đó bịt hết các giác quan của con này lại và kéo con bé đứng lên bằng bằng hai chân sau, thì sẽ khiến con ấy lảo đảo, và ả ta sẽ không hồi phục lại nhanh chóng được.”
(Người dịch: cách ví von đứng bằng hai chân sau, các bạn hãy tưởng tượng hành động nhấc hai chân trước con chó lên để nó kiễng bằng hai chân sau, đứng một hồi nó sẽ run rẩy và chao đảo. Không phải tự nhiên dưng mà Oludari nói như thế, lão này có mục đích rõ ràng khi ví von nhỏ Cecil như con chó, còn tại sao ví như con chó thì tùy bạn đọc tự suy nghĩ thêm)
Khi lão Oludari nói, một luồng suy nghĩ mới đứt ra khỏi luồng suy nghĩ cũ trong đầu, hình thành nên một ý tưởng mới, tuy còn non nớt, khá liều lĩnh nhưng không thể kìm suy nghĩ này tuôn ra được.
Tôi cần phải khám phá cục keystone thứ tư để giải mã nó và đạt được khía cạnh Định Mệnh, nhưng nếu những gì ông Mordain nói là đúng, tôi có thể bị mắc kẹt ở đấy trong một khoảng thời gian chưa xác định. Tên Agrona đã liên tục tỏ ra là hắn đi trước tôi vài bước và tôi không thể biết được liệu hắn có bao nhiêu tên gián điệp ở Dicathen. Tôi chẳng thể đơn giản tin rằng việc mình vắng mặt sẽ không bị để ý, và tôi phải chấp nhận là khi mình sử dụng cục keystone thứ tư là một thời điểm nguy hiểm với lục địa Dicathen. Với việc nhỏ Cecilia đã đứng sẵn trên đất chúng ta để theo đuổi một mục tiêu không xác định nào đấy rồi, thì sẽ là cực kỳ ngu ngốc nếu không sửa soạn trước.
Nhưng tôi vẫn đủ khả năng, cùng một lúc vừa bảo vệ mình hay lục địa Dicathen khỏi bị một cuộc tấn công nhắm vào khi bản thân đang ở thế yếu và vừa đảm bảo rằng nhỏ Cecilia sẽ bị vô hiệu hóa, ít ra là trong nhất thời.
Tiếp sau đấy tôi hỏi một số câu, cẩn thận không để lộ quá nhiều thông tin cho lão Oludari hay lũ rồng, nhưng tôi nhanh chóng đạt đến giới hạn khả năng chịu đựng cơn nhói ngứa này, nó như hàng nghìn con bọ đang bò lồm ngồm dưới làn da, cái thứ cảm giác được khuếch đại bởi từng lớp suy nghĩ đan xen nhau trong đầu.
Khi xong việc, tôi quay người đi không nói lấy một lời, lướt qua tụi rồng và lão Wren, rời khỏi phòng giam và đi dọc hành lang phía trước. Chỉ tới khi đó tôi mới ngừng duy trì ấn Gambit Vua để không ai nhìn thấy bộ mặt tôi xụ xuống hay trán toát mồ hôi lạnh.
Tôi cảm thấy tâm trí Regis đang quay lại, ngập ngừng chạm vào tâm trí tôi, rồi giật lùi lại. ‘Ê này, sếp ơi, cậu sẽ ổn chứ hả?’
Tôi ổn, tôi gửi tín hiệu đáp lại ngay lúc vượt qua tác dụng phụ từ ấn godrune kia. Lúc đến chỗ cửa trại giam, cảm thấy ít ra mình đã nói lại được mà không bị líu lưỡi, tôi dừng lại chờ những người khác bắt kịp.
“Thật lãng phí thời gian,” tên Windsom nói gọn lỏn khi bước vào phòng gác bên ngoài nhà ngục mà tôi đang đứng.
“Không may là ta cũng đồng ý thế,” gã Charon đế thêm, bề ngoài tỏ vẻ thất vọng. “Ta đã hy vọng ngươi có thể khai thác được nhiều hơn từ hắn khi ngươi kích hoạt thứ…phép thuật đấy?” Hắn dừng lời, nhìn tôi với vẻ thắc mắc.
Tôi xém chút định thành thật đáp lời, những từ ngữ đó đã nằm ngay chót lưỡi đầu môi trước khi tôi nuốt chúng ngược vào họng. Thay vào đó, tôi chỉ nói: “Tôi hài lòng. Lão Kezess đang đợi tên Vritra này và tôi muốn hắn rời khỏi Dicathen càng sớm càng tốt—thực tế là đi ngay bây giờ. Chẳng có lý do gì để mồi chài tên Agrona nỗ lực thêm để giành hắn lại cả, bất kể mấy lời trước đấy tôi dọa hắn.”
“Đồng ý,” tên Windsom nói, nhìn gã Charon để xác nhận. Gã rồng đầy sẹo này cũng gật đầu chấp thuận.
Lão Wren vốn đã chăm chú lắng nghe trong suốt lúc tôi thẩm vẩn, đặc biệt là khi cuộc nói chuyện chuyển sang nhỏ Di Sản, giờ đến đứng cạnh tôi. “Ta cần quay lại Vildorial. Nhà ngươi cũng tới đó à?”
Có vài nhóm người ở thủ đô của vùng Darv mà tôi cần phải nói chuyện, nhưng trên hết tôi muốn hỏi thăm mẹ và nhỏ Ellie. Tôi đồng ý: “Đúng thế.”
“Bọn ta đã sửa chữa một số chức năng của pháo đài này,” gã Charon nói từ sau lưng tôi. “Bao gồm các thiết bị dịch chuyển tức thời, rất may là chúng không bị phá hủy hoàn toàn trong trận chiến trước đây. Vajrakor cũng thấy chuyện di dời một trong những khung cổng dịch chuyển tầm xa từ phía tây vùng Darv đến thủ đô Vildorial là hợp lý, cho phép chúng ta di chuyển nhanh hơn giữa các địa điểm chiến lược quan trọng.”
Tôi lưu ý thêm: “Tôi hiểu về cái khoản tiện lợi, nhưng đó là một rủi ro lớn đấy,”
Gã Charon trấn an tôi: “Tất cả các biện pháp phòng ngừa đã được thực hiện để đảm bảo an ninh cho thành phố và người dân ở đó.”
Tôi gật đầu, thừa nhận rằng đây là quyết định của người lùn. Tôi không phải người cai trị bọn họ.
Gã này tiếp tục nói về những thay đổi cơ sở hạ tầng mà bọn chúng đã thực hiện quanh các thành phố lớn nhất ở Dicathen trong khi tôi dẫn đường băng qua các hành lang đã được sửa chữa để đến phòng dịch chuyển. Mặc dù thực tế là bọn chúng đã vô hiệu hóa các vật tạo tác khi không dùng đến, nhưng vẫn có riêng một tên lính rồng gác trong căn phòng, và gã này đứng tránh sang một bên khi chúng tôi đến gần. Gã Charon và tên Windsom dừng lại bên ngoài phòng trong khi tôi và lão Wren bước qua mấy cánh cửa to.
Trong tâm trí tôi ngập tràn những ký ức và một cảm xúc khó chịu không tên đang bóp chặt trong bụng như ai đó nắm lấy ruột gan và vặn xoắn. Tôi đang nhìn thấy ở đây, như thể đang sống lại lần đầu nơi này bị tấn công, khi những người lính bị thương hoặc khập khiễng hoặc bị kéo ra khỏi căn phòng này trong khi tôi dò tìm từng khuôn mặt, kiếm xem có nhóm Twin Horns và em Tessia trong số đấy hay không. Em Tess đã quay lại, nhưng người bạn cũ của bố mẹ tôi, chú Adam, thì không.
“Arthur?” Lão Wren hỏi khi suýt va vào tôi từ phía sau. Tôi đã đứng cứng người lại mà không nhận ra.
“Ổn mà,” tôi lẩm bẩm, trải qua cảm giác cảnh này thấy đâu đó rồi (déjà vu) rất mãnh liệt khi nhìn đối diện gã Charon. “Tôi sẽ sớm cần ông phối hợp trong một chiến dịch lớn, nhưng tôi cần thời gian để lên kế hoạch chi tiết hơn. Ông sẽ ở đây hay ở thành phố Etistin?”
Gã Charon nhìn quanh lâu đài. “Ta đã quyết định sẽ ở lại đây và tạm thời biến nơi này thành căn cứ hoạt động của bọn ta. Nó nằm gần khe nứt và có dãy thiết bị dịch chuyển cho phép bọn ta tiến vào hầu hết mọi nơi ở lục địa của các ngươi trong tức khắc.”
Tôi gật đầu, nhanh chóng giải thích những gì mình đã biết về việc Cecilia đang hiện diện ở đây, chừa ra mọi chuyện về ngài Mordain và các phượng hoàng mà thay vào đó nói như thể Chul đã đi thám thính theo lệnh của tôi khi cậu ấy bị tấn công, và tôi đã biết được mọi thứ là từ cậu ta.
Tên Windsom cau mày sâu hơn khi nghe tôi giải thích, nhưng hắn ta giữ suy nghĩ lại cho riêng mình.
Mặt khác, gã Charon lại chú trọng lấy từng lời. “Điều này đã giải thích về chỗ địa điểm diễn ra trận chiến. Ta sẽ đảm bảo tăng cường cảnh giác chỗ khe nứt, mặc dù không có cách nào con ấy xác định được vị trí của nó, nếu nơi ấy thực sự là mục tiêu của bọn chúng.”
Tôi đưa ra một số gợi ý về những gì cần canh chừng và vài chi tiết về trận chiến trước đây của tôi với nhỏ Cecilia, sau đó tôi và lão Wren chào tạm biệt những người khác, rồi chúng tôi kích hoạt cổng dịch chuyển tức thời và đặt tọa độ cho nó đến thành phố Vildorial.
Lục địa lướt qua xung quanh người chúng tôi và nhòe mờ đi khi chúng tôi gần như bị lôi rút tức thì từ mạn đông vùng Beast Glades qua tận trung tâm vùng Darv.
Hơn chục người lùn mặc giáp được vũ trang hạng nặng và một ả rồng ở dạng người đang canh giữ đầu ra bên này của cánh cổng dịch chuyển. Họ nháo nhào lên trong chốc lát khi chúng tôi bước qua cổng, nhưng tất cả đều nhanh chóng nhận ra tôi và lão Wren, và chúng tôi được phép đi qua mà chẳng gặp phiền toái gì.
Lão Wren hỏi: “Khi nào bọn ta nên hóng ngươi đến xem xét tiến độ thí nghiệm của chúng ta đây?” dừng lại ở khúc có hướng tách ra mà chúng tôi sắp rẽ.
Tôi nói: “Sớm thôi,” liếc nhìn lại sau lưng mình hướng về phía cổng Viện Earthborn. “Còn bao lâu nữa thì các ông đưa được nguyên mẫu sẵn sàng chiến đấu vào sản xuất thế?”
Lông mày lão khổng thần (titan) nhướng lên sau mái tóc bù xù che phủ. “Đã có nguyên mẫu rồi, nhưng mỗi bộ là riêng biệt, cũng như…” Lão nghi ngờ liếc quanh. “Người vận hành vậy,” rồi chậm rãi kết thúc. “Sẽ mất thời gian để ổn định các đơn vị bổ sung.”
Tôi cảm thấy quai hàm mình cắn chặt rồi nhả ra khi cân nhắc câu trả lời. “Tôi có thể cho mấy ông hai tuần.”
Đôi mắt lão mở to và ngó xuống đất như thể lão đang thấy dự án của mình khi nhìn xuyên qua mấy tảng đá vậy, thứ nằm sâu bên dưới thành phố Vildorial, đặt trong những đường hầm sâu nhất, nơi những con mắt tò mò sẽ không vô tình bắt gặp nó. “Không đủ thời gian để tìm người dùng mới, đào tạo và thiết kế thì còn ít thời gian hơn thế nhiều…”
Tôi nói: “Chúng ta cần nhiều nhất những gì mấy ông sẵn sàng được,” đưa tay ra bắt tay lão ấy.
Thay vì nắm lấy tay tôi, lão ấy đưa ra thứ gì đó mà lão đang giấu sau lưng, và tôi giật tay lại như thể bị bỏng, nhìn chằm chằm vào vật đó.
“Người của gã Charon đã tìm thấy nó trong đống đổ nát. Khi bọn chúng nhận ra nó được người asura làm, chúng đã thu thập các mảnh này.”
Thứ đang bị lão này cầm hờ hững trong tay là cái chuôi thanh kiếm Dawn’s Ballad. Nó vẫn còn gắn phần lưỡi kiếm màu xanh lam dài khoảng một inch, dọc phần rìa bị gãy của nó có màu xám và trông lởm chởm. “Nó không phải là thứ tuyệt nhất ta từng làm ra, nhưng ta nghĩ có thể nhà ngươi sẽ muốn nó.”
Tôi thận trọng đón lấy tay cầm, lật nó qua lại và nhìn, bị choáng váng vì cảm giác chóng mặt khi nhìn thấy một giấc mơ đột nhiên hiện ra trong thế giới thực.
Rồi lão Wren đưa ra một cái hộp nhỏ. Khi tôi cầm lấy nó ra, lão mở nắp hộp để lộ những mảnh màu xám bên trong: phần còn lại của lưỡi dao.
Khóe miệng lão nhếch lên một nụ cười gượng siêu nhỏ. “Ta biết lũ con người các ngươi có thể đa sầu đa cảm đến nhường nào.”
“Ông Wren, cảm ơn,” tôi nói đơn giản, nhìn chằm chằm vào thanh Dawn’s Ballad, hoặc ít nhất là những gì còn lại của nó.
Lão nhún vai và quay đi. “Đến tìm bọn ta sớm nhé. Có kha khá điều cần thảo luận nếu ngươi muốn hoàn thành công việc trong hai tuần.”
Khi tôi rời mắt khỏi món quà của lão để nói điều gì đó, lão ta đã biến mất trong dòng xe cộ di chuyển đều đặn dọc theo đường đại lộ uốn lượn quanh phần rìa của hang động khổng lồ nơi đây.
Đôi chân lơ đễnh bước đã dắt tôi qua cổng học viện đi dọc theo các hành lang cho đến khi tới trước cửa nhà mẹ mình. Khi tôi giơ tay lên định gõ, cánh cửa bật mở vào trong làm lộ ra khuôn mặt đầy hy vọng của mẹ.
Bà ấy trông có vẻ bất ngờ, gần như thể mẹ đang tìm tôi nhưng không ngờ rằng tôi thực sự đang đứng đây. Tôi có thể thấy được sức nặng từ hàng ngàn lời đang treo trên đầu lưỡi của mẹ, và gần như tưởng tượng ra lời trách mắng mà bà ấy sẽ dành cho mình về tình trạng của nhỏ Ellie trong lần gần nhất con bé quay về nhà, và chỉ đi với Chul, không còn ai nữa.
Nhưng cũng nhanh chóng, sự căng thẳng và chán nản tan biến, thay vào đó là sự ấm áp cùng niềm vui với vẻ hơi buồn. Bà ấy nở một nụ cười ấm áp với tôi. “Mừng con về nhà.”
***
Mẹ khịt mũi khi nhỏ Ellie kể lại một trong nhiều cuộc trò chuyện của bà ấy với ông Gideon, và mẹ lấy tay che miệng vì xấu hổ.
Nhỏ Ellie bật cười lớn, rồi cố tình bắt chước tiếng khịt mũi vô tình của mẹ. Mẹ ném một ổ bánh mì vào đầu con bé, nhưng nhỏ Ellie đã kịp chụp lại giữa lúc nó đang bay và cắn một miếng lớn, trông vô cùng hài lòng với chính mình. Tiếng cười theo sau đấy kéo dài rất lâu, cảm giác như có một cái khăn trong đầu lau sạch tinh thần tôi vậy.
Mẹ nói: “Vậy thì, Ellie, mẹ đang thắc mắc,” và em gái tôi tỏ ra căng thẳng, rõ là đang chờ vài câu hỏi nào đấy được soạn sẵn chờ con bé trả lời. “Con chưa bao giờ có một cuộc sống bình thường kể từ khi con mới được vài tuổi. Khi anh con cứu được thế giới này và mọi thứ trở lại bình thường—thực sự là bất kể khi đó ra sao—thì con nghĩ mình sẽ làm gì?”
“Trở thành một bà nội trợ,” Nhỏ Ellie nói mà không ngừng một nhịp nghỉ.
Cả tôi lẫn mẹ đều chớp chớp mắt vài lần trong im lặng khi cố tiêu hóa bằng được thông tin này. Nhóc Boo với thân người chui không vừa bếp ghen tị nhìn Regis qua cửa khi cậu bạn đồng hành của tôi đang ngấu nghiến một đĩa thức ăn thừa, nhóc này quay đầu sang một bên khi lườm Ellie với vẻ thách thức.
Nhỏ Ellie khúc khích cười và lắc đầu quyết liệt. “Ồ, con đùa thôi! Chời. Không, con nghĩ…” Con bé ngập ngừng, đôi mắt lơ đãng không tập trung, rồi khóe miệng nhếch lên một nụ cười. “Con nghĩ có lẽ mình muốn trở thành giảng viên dạy các thuật mana. Tại Học viện Lanceler, hoặc thậm chí là quay lại Xyrus. Điều đó sẽ…cảm giác giống như được về nhà vậy, mọi người hiểu chứ?”
Chúng tôi trò chuyện thêm một lúc nữa, nghĩ ra những kịch bản ngày càng ngớ ngẩn về những gì tất cả chúng tôi muốn làm khi cuộc chiến dài hơi này đi đến hồi kết và lục địa Dicathen được an toàn. Mẹ quyết định sẽ viết một cuốn sách về những chiến công của tôi, tuyên bố rằng bà ấy sẽ là một góa phụ lớn tuổi giàu có khi dựa hơi theo danh tiếng của tôi, trong khi tôi trấn an cả hai rằng mình sẽ nghỉ hưu, theo đuổi việc trồng khoai tây và phát minh ra món khoai tây chiên kiểu Pháp.
Tuy nhiên, trong suốt bữa tối và cuộc trò chuyện này, suy nghĩ của tôi vẫn đeo bám vụ thanh Dawn’s Ballad, cuộc trò chuyện với Oludari, và nền tảng cho kế hoạch đã dần hình thành trong đầu.
Khi cuộc nói chuyện nho nhỏ này kết thúc, để lại sau đấy một sự im lặng dễ chịu. Bị thúc đẩy bởi sự im lặng này, tôi rút mớ mảnh vỡ của thanh kiếm này ra khỏi ấn không gian ngoại chiều của mình và đặt chúng lên bàn. Nhỏ Ellie và mẹ đều tò mò nhìn. Mẹ là người nhận ra cái tay cầm trước tiên, lặng lẽ nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.
Tôi mỉm cười nhẹ với bà ấy khi mở hộp và đổ những mảnh vỡ màu xám của lưỡi dao ra nằm cạnh cái tay cầm.
Regis ngẩng đầu lên nhìn qua mép bàn. “Ồ, cậu định dùng ấn của Aroa để sửa nó à? Cậu biết đấy, tôi đã thầm mong điều này sẽ xảy ra.”
Mỉm cười hài lòng, tôi gạt những mảnh lưỡi dao từ trên mặt bàn rơi lại vào hộp, đặt cái hộp lên bàn rồi đặt tay cầm lên trên nóc hộp. “Không.”
Tôi nhận ra rằng lưỡi dao gãy chính là bước ngoặt đối với mình. Cho đến trước khi trận chiến đấy xảy ra, thì rốt cuộc tôi luôn đứng đầu. Niềm tin của bản thân vào một chiến thắng tất yếu luôn chắc chắn như thể tôi thấy nó bằng tiên đoán vậy. Tất cả quá trình luyện tập của tôi, tất cả hành trình tìm kiếm sức mạnh để bảo vệ những người tôi yêu thương, tất cả chúng đều sụp đổ, tan vỡ cùng với lưỡi kiếm màu xanh da trời của thanh Dawn’s Ballad.
Việc sửa chữa con dao sẽ không xóa bỏ được thất bại của tôi hay chuỗi hậu quả kéo dài sau đó, thứ đã định hình nên thế giới mà chúng tôi hiện đang sống. Tôi liếc nhìn từ Mẹ sang nhỏ Ellie, rồi đến bức tường, nơi treo bức tranh bằng than do cha tôi vẽ. Đôi mắt của mẹ dõi theo hướng tôi nhìn, và bàn tay mẹ chìa ra đặt lên cánh tay tôi.
Nhỏ Ellie buông ra một tiếng thở dài mệt mỏi nghe có vẻ quá già đối với tuổi con bé. “Em nóng lòng chờ cuộc chiến ngu ngốc này kết thúc. Để xây dựng lại nhà cửa, để sống yên bình—ở nơi mà mối lo lớn nhất của chúng ta là mặc bộ nào để đi hẹn hò…”
Tôi nhướng một bên mày, nhìn nhỏ em một cách nghiêm túc. “Mặc dù thực tế là anh thà bị xích cả hai tay sau lưng rồi cùng vật nhau với hai mươi thằng Wraith còn hơn là nhìn em sửa soạn để đi hẹn hò, anh hứa, El à… anh sẽ làm mọi thứ có thể để biến tương lai đó thành hiện thực.
“Nhưng anh sẽ lại cần em giúp đỡ một lần nữa để làm được điều đấy. Và nó sẽ nguy hiểm đây.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
-
1.
⤴︎
Hình minh họa bánh mì cuộn hương quế - cinnamon rolls: - 2. Tóm tắt: Art và lũ rồng tra hỏi lão Oludari.
- 3. Giải thích ấn godrune thứ ba có tên Gambit Vua: đây là một godrune giúp gia tăng khả năng suy nghĩ. Lấy ví dụ đơn giản cho dễ hiểu, hãy tưởng tượng 1 con CPU máy tính vốn chạy ở xung nhịp 1Ghz, nay bạn ép xung (overlock) nó lên chạy ở xung 5Ghz trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, nó sẽ làm con CPU ấy hoạt động nhanh hơn và tất nhiên là nóng hơn. Gambit Vua cũng làm việc tương tự, nhưng CPU ở đây là suy nghĩ của Arthur, thể hiện ra là trong đầu Art hiện suy nghĩ song song vài chuyện 1 lúc (tương tự như CPU có nhiều luồng-thread xử lý), khả năng tập trung quan sát gia tăng, để ý chi tiết đến từng hoạt động nhỏ của cơ thể khi nói như nhịp tim, hơi thở, cử chỉ, v.v… nhằm phát hiện nói dối chẳng hạn. Tóm lại đây là cách Gambit Vua hoạt động, thúc đẩy não xử lý vấn đề nhanh hơn, thu được nhiều thông tin từ môi trường bên ngoài vào đầu hơn.
- 4. Cái đm, hơn 10.500 chữ, bác nào được donate đi ạ 😢
- 5. Đã check in nghiêng (italic) từ bản gốc của tác giả.
- 6. Ver.1: Apr-14th-2024; ver.2: Apr-22nd;