Tưởng nhớ
Tên gốc: "Chapter 456: Remembrance"
Khi thằng Kezess quan sát tôi thật kỹ lưỡng, đôi mắt hắn chuyển sang màu hoa oải hương. Sau một hồi đắn đo, hắn gật đầu tỏ vẻ hài lòng. “Thỏa thuận của chúng ta là thứ đòi hỏi phải có sự cho đi và nhận lại nhất định. Ta tin rằng những gì ngươi đáp lại sẽ phản ánh cả lòng biết ơn chứ không đơn giản chỉ là những lời nói suông.”
“Dĩ nhiên,” tôi sẵn lời đáp. Suy cho cùng, nếu tao đáp lại bằng chính hành động tương tự như mày thì sẽ chẳng phải nợ nần gì nhiều đâu.
Tên Kezess nói: “Còn giờ, có lẽ ngươi có thể kể nhiều hơn cho ta nghe về cuộc trò chuyện của ngươi với tên Oludari,” hắn rời khỏi chỗ Con đường Thấu Thị và đứng sang bên cạnh. Hắn chỉ vào lằn vòng tròn mòn vẹt trên đá dưới sàn. “Và sau đó, ta nghĩ sẽ đến lúc chúng ta tiếp tục chuyển giao sự thấu hiểu sâu sắc về aether của ngươi, như đã thỏa thuận.”
Tôi nói: “Cho đi và nhận lại,” lặp lại những lời trước đó của hắn. “Với việc lũ rồng thất bại không bảo vệ được người dân Dicathen tránh khỏi cuộc xung đột đẫm máu từ chính lũ rồng, thật là bất công khi yêu cầu mỗi mình tôi thực hiện thỏa thuận của mình.”
Tên Kezess hơi cau mày, môi hắn cong lên khi định mở miệng đáp lời.
Tôi giơ tay lên ngăn lại. “Nhưng tôi không đến đây tay không. Thay vào đó, tôi có một loại thông tin khác.”
Trong lúc đang nói chuyện, tôi đã cân nhắc thật cẩn thận thời điểm cho việc này. Hành động từ chối thẳng thừng không cung cấp cho tên Kezess bất kỳ sự thấu hiểu sâu sắc nào mới nào sẽ dẫn đến xung đột, điều sẽ đẩy đến một kết cục mà giờ tôi chưa sẵn sàng xử lý, nhưng nếu tôi cúi đầu trước những yêu cầu của hắn mà không phản đối, tôi sẽ làm mất đi thế cân bằng trong mối quan hệ mong manh giữa cả hai và trao cho hắn nhiều quyền lực hơn để áp đảo tôi.
“Bé Sylvie đang nhìn thấy những viễn ảnh,” tôi nói mà không mào đầu câu chuyện.
Đôi mắt tên Kezess tối sầm lại khi nhìn chằm chằm vào tôi, nhưng hắn không ngắt lời.
Tôi giải thích mọi thứ, bắt đầu từ chính thời điểm xuất hiện các viễn ảnh đó rồi quay trở về đoạn chi tiết về các sự kiện xảy ra sau khi cô bé tái sinh, bao gồm cả cơn động kinh và những gì bé đã trải qua trong thời gian đó—mặc dù tôi đã bỏ qua phần cô bé đã trải qua nó trong Khu Tàn Tích ra sao.
Khi tôi kể xong, gã Kezess quay đi và nhìn chằm chằm ra ngoài một trong số các khung cửa sổ bao quanh căn phòng trên tòa tháp này. Ba tên rồng con đang rượt đuổi nhau quanh vách núi theo một bài tập võ thuật nào đó. “Lẽ ra ngươi phải đem con bé đến với ta ngay lập tức. Ở đây, ta có thể giúp được nó. Ấy vậy mà lại để nó lảng vảng quanh Dicathen với tư cách là thú cưng được tán tụng của ngươi…”
Hắn quay người lại, và đôi mắt nhìn như tia sét tím. “Con bé Sylvie phải cẩn thận. Loài rồng hiếm khi nhận được những viễn cảnh như ngươi mô tả. Và bất kỳ lần nào vô tình dính líu tới thuật aether của con bé đều có thể dẫn đến hậu quả thảm khốc. Từ những gì mà ngươi vừa kể, rốt cuộc thì dường như con bé đã may mắn thoát khỏi thế giới giấc mơ đấy.”
“Cô bé đã tiến được một chặng đường dài trong sự hiểu biết của mình rồi. Tôi đã nghĩ có lẽ cô bé có thể được đào tạo thêm ở Epheotus này…nếu cả hai chúng ta đều biết rằng cô bé sẽ an toàn ở đây.”
“An toàn ư?” tên Kezess nói, lời lẽ bén như dao. “Liệu cháu gái của ta có được an toàn ở đây không, ở ngay nơi ta đang nắm quyền à? Ngươi nghĩ gì vậy, Arthur. Ngươi thực sự nghĩ ta khủng khiếp đến mức trong mắt ngươi dường như ta là mối đe dọa đối với chính máu mủ của mình à?”
“Tôi xin lỗi vì cách diễn đạt của mình,” tôi trả lời với vẻ xoa dịu. “Tất nhiên, ý tôi là cô bé vẫn sẽ nhận được quyền tự do như hiện đang có, để đến đây và rời đi tùy thích, để tiếp tục tham gia vào cuộc chiến chống lại Agrona, để—”
“Phải, phải, ta hiểu,” hắn ta nói, ngắt lời tôi và vẫy tay xua chuyện đi. “Nếu điều này khiến cả hai người cảm thấy thoải mái, thì để ta hứa với ngươi rằng ta sẽ không nhốt cháu mình trên ngọn tháp cao chót vót và từ chối không cho con bé rời đi cùng ngươi nữa nếu ngươi cũng cam kết bằng một lòng tốt đáng kinh ngạc rằng… sẽ cho con bé ghé thăm đây.”
Tên Kezess thở ra một hơi và có chút thay đổi nhẹ trong thái độ bề ngoài của hắn. “Ta sẽ chấp nhận thông tin vừa nãy để đổi lấy thời gian ngươi bước đi trên Con đường kia. Thực sự thì dù sao cũng có rất ít thời gian cho những việc như vậy lúc này. Phải có một buổi lễ tôn kính và hồi hương về đây dành cho con rồng đã ngã xuống ở lục địa Dicathen. Với tư cách là lãnh chúa của bộ tộc Matali, ta sẽ tổ chức buổi lễ trong lăng mộ của chính gia tộc mình, và rồi thi hài của con bé ấy sẽ được đưa trở về gia tộc của họ để tổ chức một tang lễ đàng hoàng.”
“Tôi hiểu rồi,” tôi nói, suy nghĩ chuyển sang việc kế tiếp. “Nhiều người đã mất mạng ở đó, nhưng cái chết của ai đi nữa cũng không làm giảm bớt nỗi đau cho sự ra đi của bất kỳ người nào khác. Tất nhiên là tôi rất tiếc vì sự mất mát của các ngài. Nếu giờ Windsom tử tế trả tôi về lại Dicathen, tôi sẽ không làm phiền ông nữa.”
“Ngược lại,” tên Kezess nói, hơi nhướng mày, “Ta muốn ngươi tham dự.”
Tôi hỏi: “Vì mục đích gì?” bối rối trước yêu cầu bất ngờ của hắn.
Hắn giải thích: “Với tư cách là kẻ đại diện cho người dân của ngươi, nhân danh những kẻ mà con bé chiến binh rồng này đã hy sinh bản thân cho chúng, đó sẽ thể hiện một sự tôn trọng tuyệt vời”.
Tôi suy xét lời hắn nói và ý nghĩa ẩn sau chúng. Tôi nghĩ rằng cho đến giờ hắn đã đẩy hai tên asura vào chỗ chết ở Dicathen, dù biết rằng điều đó chắc chắn đã ảnh hưởng đến mối quan hệ của tên Kezess với những gia tộc này. Hắn sẽ có lợi về mặt chính trị nếu đem tôi ra diễu hành trước mặt những tên asura này, nhưng tôi không thể không đồng ý với lý lẽ của hắn. Mặc dù vẫn còn tức giận vì cách lũ rồng xử lý việc truy đuổi lão Oludari, nhưng dù sao đi nữa thì chúng vẫn là đồng minh của tôi và việc thể hiện sự tôn trọng vào thời điểm này có thể giúp duy trì trạng thái đấy.
Và, mặc dù cảm thấy mình đang có vẻ toan tính khi nghĩ về việc này, nhưng tôi cũng biết rằng đây là cơ hội duy nhất để đánh giá cảm giác của các asura khác về những quyết định của thằng Kezess và cuộc chiến chống lại tên Agrona.
“Tất nhiên rồi. Tôi rất vinh dự,” tôi nói sau khi thu xếp các suy nghĩ trong đầu mình lại.
Tên Kezess nói: “Không cần mặc cả hay tranh luận gì à? Có lẽ rốt cuộc thì chúng ta cũng đạt được một số tiến triển nào đó” lông mày hắn hơi nhướng lên một chút. “Lăng mộ đang được chuẩn bị trong lúc chúng ta nói chuyện.”
Chỉ bằng những lời lẽ đơn giản đó, tòa tháp rung giật một cách khó chịu, và đột nhiên chúng tôi đang đứng trong một hội trường rộng lớn được chạm khắc hoàn toàn bằng loại đá trắng sáng. Các hàng cột trụ chạy dọc theo chiều dài sảnh, trong khi các mặt tường đều được đặt những bức tượng, tranh vẽ và các công trình kiến trúc nhỏ trông như… lăng mộ. Trung tâm của hội trường có một chiếc bàn lớn bằng đá cẩm thạch, trên đó có một dáng người mặc giáp đang nằm.
Những người hầu đang vội vã chạy khắp không gian quanh đây, nhưng tất cả họ đều dừng lại khi chúng tôi xuất hiện, cúi đầu thật sâu. Tên Kezess xua đi sự chú ý của họ bằng một cử chỉ gạt tay nhẹ nhàng và họ quay lại với công việc của mình.
Tôi quan sát với vẻ tò mò khi một phụ nữ asura trẻ thở ra một đám khói than màu hồng. Chúng đông cứng trong không khí xung quanh cô ta, và cô ta bắt đầu nhổ từng cục than hồng ra và đặt chúng quanh chỗ góc phòng đằng kia. Kết quả là hàng chục ngọn lửa bập bùng lờ mờ mang lại ánh sáng dịu nhẹ nhưng ấm áp. Ở gần đây, có một người đàn ông đang bay gần trần nhà, những dây leo sẫm màu vươn ra khỏi cánh tay anh ta và dính chặt vào đá. Lúc anh ta đang chầm chậm bay trôi đi, những dây leo bắt đầu phát triển, mọc tràn xuống sàn nhà. Một người hầu khác đi theo sau anh ta, thì thầm với những sợi dây leo kia. Trong lúc cô ta đang nói, những chiếc lá mọc ra trên dưới thân dây leo, những chiếc lá mùa thu hoàn hảo với các màu nhạt như đỏ, nâu và cam.
Nhiều người hơn nữa đang chở đồ ăn và đủ loại thức uống, vài người mang những khay to bằng vàng, những người khác vác những thùng đồ uống khổng lồ trên vai. Có một người thậm chí còn đang cân bằng vài chục chiếc đĩa và cốc vàng trên những cơn lốc nhỏ kéo theo sau lưng mình như một đàn vịt con. Lăng mộ nồng nặc mùi thức ăn, gợi lại những kỷ niệm khó quên trong thời gian tôi luyện tập ở đây.
Tôi bước lên chỗ chiếc bàn tâm điểm đại sảnh, nhìn kỹ hơn ả asura đã ngã xuống. Cô ta trông giống hệt chị gái mình với mái tóc dài màu vàng và mặc bộ giáp trắng. Một tấm khiên dạng tháp nằm ở bên trái ả ta trong khi cây giáo dài ở bên phải.
Tên Kezess đặt tay lên mép quan tài chừng vài giây trong khi chúng tôi đứng im lặng. Rồi thì không nói một lời, hắn quay lại và bắt đầu đi dọc theo rìa tường của khu lăng mộ, ngắm nhìn từng vật tạo tác của tộc hắn mà chúng tôi đi ngang qua trước khi dừng lại trước một bức tranh treo tường lớn về một người đàn ông trông rất giống Kezess. Tóc ông ta cắt ngắn, để ria mép và chòm râu dê dày, nhưng đôi mắt và nét mặt gần như giống hệt như hắn.
Tôi hỏi: “Người thân của ông à?” ngó lên bức tranh.
“Một trong những thành viên cổ xưa của tộc bọn ta, người đã đưa bọn ta đến Epheotus,” hắn nhẹ nhàng nói.
Tôi tập trung nhìn bảng tên ở dưới bức chân dung. “Kezess của Gia tộc Indrath, tên riêng của ông ấy. Và tên riêng của ông là gì?” Tôi hỏi, nhướng một bên mày.
(Nguyên văn: “Kezess of Clan Indrath, first of his name. And which one are you?” Người trên hình có first name là Kezess, và Art muốn hỏi, cái first name của thằng Kezess này là gì?)
Môi hắn nhếch lên khi cố nhịn cười. “Bây giờ thì có nhiều quá không đếm nổi.” Hắn im lặng một lúc, chỉ chăm chú nhìn lên bức tranh tường với vẻ nghĩ ngợi. “Loài rồng bọn ta đã lao động cùng aether kể từ những ngày trước khi lục địa Epheotus được hình thành. Ấy vậy mà chưa bao giờ bọn ta có cơ hội như bây giờ để đào sâu hơn về sự hiểu biết sâu sắc của mình. Thứ ‘Godrune’ này, tên là Lời cầu hồn của Aroa như cái cách bọn djinn đã gọi, khá thú vị, nhưng lại chẳng là gì vì dù cho có sự hiểu biết đầy đủ phù hợp về aether, về thời gian và về cả nhánh aevum mà không có chính cái Godrune đấy thì vẫn không thể mô phỏng lại được. Ta cần phải hiểu thêm.”
Tôi bước về phía ngôi mộ tiếp theo, đó là một cấu trúc được chạm khắc tinh xảo có mái dốc phía trên được trụ đỡ bằng những cây cột chịu lực và có một cỗ quan tài chẳng có gì đặc biệt nằm ở dưới, tất cả đều được chạm khắc bằng thứ đá xanh lam mát rượi phát ra vẻ lấp lánh khi tôi tiến tới gần.
Tôi nói: “Nhưng tôi nghĩ vấn đề chính xác là ở đấy,” để mắt trôi lang thang khắp ngôi mộ lấp lánh kia trong khi dòng suy tư chạy đua để nghĩ ngợi. “Người djinn đã thành thạo thuật hiện thực hóa kiến thức phép thuật thành dạng các cổ tự. Chính ông đã nói rồi đấy, đó là cách họ làm bản thân trở nên mạnh mẽ như vậy. Các dạng mẫu thức phép mà Agrona đã sao chép cho người của hắn cũng có tác dụng tương tự nhưng là đối với mana, nhưng vì bản thân mana dễ kiểm soát trực tiếp hơn nhiều, nên việc rèn nó thành hình dạng và bắt nhốt nó thành một cổ tự (rune) cũng dễ dàng hơn nhiều.”
“Ta hiểu rồi,” tên Kezess trầm ngâm, đi đến cạnh tôi và đứng với tư thế chống lòng bàn tay dựa vào một cây cột được chạm trổ. “Vậy thì, những cục ‘keystone’ này là nỗ lực của bọn djinn nhằm rèn sự thấu hiểu sâu sắc về aether thành một cổ tự có thể gắn được vào người bằng cách mở khóa được chính cục đá đấy.”
“Không hẳn thế,” tôi giải thích, tổ chức suy nghĩ của mình một cách cẩn thận. “Bản thân những khối keystone không rèn nên ấn godrune. Chúng chứa…thông tin thô, một loại câu đố nào đó, mà bằng cách giải quyết câu đố đấy, ta sẽ nhận được sự thấu hiểu sâu sắc và ấn godrune đấy sẽ hình thành. Nhưng không đòi hỏi phải có cục keystone để hình thành nên một godrune.”
Miệng hắn khẽ mở, cặp lông mày nhướng lên trước khi hắn kiểm soát lại được biểu cảm của mình, xóa đi vẻ ngạc nhiên khỏi mặt. “Ngươi có những ấn godrune không được hình thành bởi cục keystone ư?”
Tôi chậm rãi gật đầu. “Ấn Destruction.” Tôi giơ tay ngăn trước câu hỏi sắp tới. “Nó không được lưu lại trong cơ thể hiện hữu này của tôi mà là trên người Regis, bạn đồng hành của tôi.”
“Vậy là ngươi có thể…tự nhiên làm hiện ra một ấn godrune.” Hắn dừng lại một giây. “Bằng cách đạt được sự thấu hiểu sâu sắc đủ để hình thành nên nguyên tắc dẫn dắt nhằm nhận được sức mạnh à?”
“Đó là những gì tôi đã biết,” tôi xác nhận.
Ánh mắt tên Kezess trở nên sắc bén hơn khi hắn chú tâm nhìn tôi. “Và đó là tất cả những điều ngươi đã biết sao?”
Tôi cười gượng với hắn và tiếp tục đi về phía vật tạo tác tiếp theo xếp theo hàng, một bức tượng cao chót vót của một người phụ nữ trông có vẻ nhẫn nại cam chịu, vẻ ngoài của bà ta được lưu lại vào khoảnh khắc đang trầm ngâm nghĩ ngợi. Lớp đá cẩm thạch màu kem ấm áp khiến bà ta trông gần như thật sống động. Sau lưng chúng tôi, một tên rồng đang niệm ra những dây leo để che đi bức chân dung của lão Kezess đệ nhất. Một tên rồng khác giờ đã tham gia làm việc chung với hai con ban đầu, và bất cứ chỗ dây leo nào chúng chạm vào, một bông hoa màu đen sẽ nở ra.
“Đúng vậy, nhưng hy vọng là không lâu,” tôi tiếp tục nói, xoay quanh một chủ đề mà mình hy vọng có thể giấu diếm được hắn. “Trong số bốn cục keystone giấu trong Khu Tàn Tích, tôi đã tìm thấy ba cục. Tuy nhiên, khối thứ tư không thể mở được nếu không có khối thứ ba, và trước khi tôi đến cái đó đã bị lấy khỏi tay người bảo vệ chúng. Điều này đã xảy ra khá lâu rồi, hay đại loại vậy.”
Đôi mắt tên Kezess mất tập trung khi nhìn vào khoảng không. “Ta không biết gì hơn về mấy cục keystone này ngoài những gì ta đã học được từ ngươi và khoảng thời gian ngươi đi trên Con đường Thấu Thị. Nhưng…” Hắn quay người, rời khỏi bức tượng này và băng qua đại sảnh.
Ở đó, có một loại đền thờ nào đấy được xây nên. Vài ngọn nến bạc được châm lửa, tỏa ra một làn khói thơm ngọt ngào bốc lên như đóng khung cho bức chân dung gắn cố định trên tường. Bức tranh miêu tả một người đàn bà với mái tóc vàng rất nhạt màu được tết thành nhiều bím quấn quanh đầu như một chiếc vương miện. Bà ấy là một người phụ nữ rất xinh đẹp theo kiểu mạnh mẽ với vẻ ngoài tinh tế và quý phái. Lúc đầu tôi không nhận ra bà ấy, nhưng khi nhìn vào đôi mắt màu hoa oải hương óng ánh của bà—thứ đã được ghi lại bằng những chi tiết ấn tượng trong bức tranh—tôi đã nhận ra mình đang nhìn ai.
“Bà Sylvia…” Tôi nói thầm, một làn sóng cảm xúc bất ngờ tràn qua người. “Tôi…chưa bao giờ nhìn thấy bà ấy trong hình dạng này.”
Tên Kezess vẫy nhẹ tay trước bàn thờ, và làn khói kia xoay tròn và cuộn xoáy. Nhìn xuyên qua làn khói bạc, tôi không thấy ảnh người phụ nữ nữa mà là hình dạng rồng luôn được tôi hình dung rõ nét được trong đầu như thể vừa mới rời xa bà ấy chỉ ngày hôm qua thôi, dạng rồng màu ngọc trai trắng và cơ thể bao phủ bởi những ấn màu hoàng kim sáng rực.
Rồi thì làn khói lắng xuống và bức chân dung trở lại trạng thái ban đầu.
Tên Kezess trầm ngâm: “Số phận là một điều kỳ lạ, Arthur à,” khi hắn nhìn vào ảnh con gái mình, cả giọng điệu lẫn vẻ mặt đều khó đoán. “Mặc dù bọn ta không thể giao tiếp hay hợp tác, nhưng ta đã học được một số điều từ bọn djinn. Chúng đã khám phá ra mối liên hệ đan xen giữa aether với Số Phận (Fate), tin rằng nó là khía cạnh thứ tư. Ta luôn nghĩ rằng chắc hẳn chúng đã giấu kiến thức này trong Khu Tàn Tích. Trên thực tế, ta sợ rằng tên Agrona đã chiếm được một phần của nó.”
Ánh mắt hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. “Giờ thì ta hiểu được nó rồi. Bốn cục keystone kia được thiết kế để mở khóa độ thấu hiểu sâu sắc cho người dùng, có nghĩa là sau đó, lần lượt mở đường cho sự hiểu biết về chính Số Phận.”
Tôi lưỡng lự, không biết phải trả lời thế nào, nhưng tên Kezess bật ra một tiếng cười nhỏ khúc khích đầy vẻ hiểu biết.
“Giờ thì không cần phải phủ nhận nó nữa đâu. Ta đã luôn thắc mắc Lời cầu hồn của Aroa có ý nghĩa gì và một chút thắc mắc về tên các godrune khác mà ngươi đã cho ta xem. Ta đoán là cái tên Realmheart…như một lời ca ngợi dành cho con gái ta chăng?” Hắn quan sát kỹ lưỡng bức ảnh của bà Sylvia trong vài giây trước khi nói tiếp: “Giờ thì mọi chuyện đã trở nên hợp lý. Tụi djinn, cùng với chính con gái ta, đã gửi ngươi đi vào cuộc hành trình để giành quyền kiểm soát Số Phận.” Tên Kezess lại ngước lên nhìn bức chân dung kia và lần đầu tiên tôi thấy nỗi buồn thực sự len lỏi trong hắn. “Sự phản bội cuối cùng của con bé Sylvia…”
“Không phải là phản bội,” tôi nói chắc nịch, đứng đối diện với hắn. “Ngay cả lúc đó bà ấy vốn đã biết tôi là ai. Bà ấy hẳn đã tin rằng đây là cách tốt nhất để tiến về phía trước. Ông không thể chạm tới những khối keystone, và bất kỳ đặc vụ nào ông tuyển được ở Dicathen cũng chẳng thể. Ông sẽ phái bao nhiêu người đến chỗ chết để tìm kiếm các khối keystone nếu ông biết về nó sớm hơn?”
“Giờ điều đó hầu như không còn quan trọng nữa,” tên Kezess trả lời, giọng đều đều. “Ngươi có hiểu mình đang hỏi gì không?” Hắn quay lưng lại với bức ảnh bà Sylvia. “Nhằm giúp ngươi, ta đã chấp nhận lờ đi việc ngươi nhận được bất kỳ sự thấu hiểu sâu sắc nào mà bọn djinn đã che giấu. Để cho mức độ sức mạnh cỡ đó cô đọng vào một tên nhân loại duy nhất…” Hắn nhẹ lắc đầu và hạ giọng như thể đang nói với chính mình. “Có lẽ sẽ khôn ngoan hơn nếu chỉ đơn giản là giết ngươi ngay lúc này, ngăn chặn bất kỳ ai nhận được thứ kiến thức này, giống như ta đã từng làm trước đây.”
Bản năng trỗi dậy, thôi thúc tôi lùi lại và chân chuyển sang tư thế chiến đấu, nhưng tôi vẫn không chịu khuất phục.
Căn phòng nhấp nháy, ánh sáng hơi nhảy lên và tên Kezess không còn đứng trước mặt tôi nữa. Tôi quay lại, thấy hắn đang đứng cách sau lưng mình mười feet, cặp mắt hắn là hai viên thạch anh tím rực rỡ như tia sét aether của tôi.
“Tên djinn từng nói với ta về Số Phận cũng đã nói với ta một điều gì khác nữa.” Tên Kezess dường như tỏa ra sức mạnh nổ lách tách, một thứ uy áp đang tích tụ lại trong lăng mộ này vốn chả liên quan gì đến Vương Lực của hắn cả. Những tên rồng khác dường như cứng đờ người trong giây lát, ánh mắt của chúng cẩn thận lảng đi, khuôn mặt trống rỗng. “Một phe phái nhỏ đã tách ra, cố gắng giành lại thứ kiến thức này, thứ mà hắn ta nói là đã bị khóa lại đem đi cất.”
Tôi hỏi: “Vậy thì ông có nghĩ một kẻ trong số các djinn kia có thể đã lấy được khối keystone hay không?” cố giữ vẻ căng thẳng trong giọng của mình.
“Có lẽ vậy, nhưng chẳng có dấu hiệu nào về chuyện đó khiến ta để ý tới cả. Nếu chúng đã làm được vậy, thì cục keystone mà ngươi đang tìm kiếm có thể đã bị đốt rụi cùng với thế giới của chúng rồi.” Tên Kezess nhẹ lắc đầu. “Có lẽ thế thì tốt hơn.”
Tôi đứng như trời trồng. Tôi đã rất chắc chắn rằng đó là một tên đặc vụ nào đó của Agrona, một trong số hàng nghìn gã mạo hiểm giả mà hắn đã phái đến chỗ chết trong Khu Tàn Tích, đã lấy nó đi. Có thể nào câu trả lời thực sự vốn đã nằm ngay trước mũi tôi suốt thời gian qua ư?
Rốt cuộc, ai đã che chở cho người djinn nổi loạn khi những người bà con dòng tộc còn lại của họ tiếp tục công việc xây dựng, ngay cả khi lũ rồng đã thiêu rụi nền văn minh của họ chứ?
“Chính bà Sylvia đã đưa tôi vào con đường này,” cuối cùng tôi trả lời, nhìn lại bức ảnh của bà ấy và cố dung hòa khuôn mặt người phụ nữ trong tranh với con người mà tôi từng biết. “Bà ấy nghĩ điều đó quan trọng đến mức bà ấy đã nhúng kiến thức về cách tìm ra những phế tích chứa các khối keystone vào lõi mana của tôi.”
“Con gái ta có nhiều ý tưởng lạ kỳ và cuối cùng, thì đều là những ý tưởng bất hạnh,” tên Kezess nói với vẻ như đang nhận xét thực tại, độ hung hăng của hắn biến mất lẹ như khi nó xuất hiện vậy. “Đừng quên rằng chính tình yêu thiếu hiểu biết của con bé dành cho một sinh vật độc ác và tàn nhẫn như Agrona đã dẫn đến cái chết của con bé. Nhưng ta nghĩ hiện giờ chúng ta đã nói chuyện xong. Tuy nhiên, trước buổi lễ, có lẽ ngươi sẽ muốn… tắm rửa sạch sẽ.” Ánh mắt hắn liếc nhìn từ trên xuống dưới bộ quần áo vẫn còn vấy máu từ trận chiến trước đó của tôi. “Sau buổi lễ, Windsom sẽ đưa ngươi trở lại Dicathen, và ta đảm bảo rằng Người Bảo Hộ Charon sẽ nhấn mạnh việc bảo vệ người dân của ngươi ở những cuộc xung đột trong tương lai.”
***
Sau khi được đưa đi tắm và thay bộ quần áo mới được cắt may hoàn hảo bằng một loại vải đen mềm nào đó mà tôi không biết loại vải, tôi quay lại lăng mộ. Nó gần như ảm đạm, sau khi hoàn toàn bị biến đổi thì giờ trông như một khu rừng lúc nhá nhem tối. Với những ngôi mộ và tác phẩm điêu khắc được giấu đi bởi những hàng dây leo đang nở hoa, không gian còn lại của lăng mộ trở nên nhỏ hơn và mang tính riêng tư hơn. Những chiếc bàn trang trí công phu được xếp thẳng hàng với phía trên là các khay bằng vàng đựng thức ăn và các thùng đồ uống kèm chai lọ. Những chiếc cốc vàng xếp thành nhiều hàng giống như những chú lính nhỏ xen giữa mỗi thùng thức uống, và mỗi bàn đều có một người hầu đứng cạnh.
Một bệ thờ được dựng dưới chân cỗ quan tài của ả rồng, trên đó đặt một cái bát nông chứa chất lỏng màu đỏ như dầu. Ở giữa bát, một ngọn hương đang bốc lên mùi cả đắng lẫn ngọt và bốc lên những làn khói mỏng cuộn tròn.
Tên Windsom đứng nghiêm nghị bên cửa như thể đang đợi tôi đến. Bộ đồng phục kiểu nhà binh của hắn thậm chí trông còn sắc nét hơn bình thường, và đôi mắt lạ đời của hắn có vẻ nặng nề khó đoán. Hắn ra hiệu cho tôi bằng một cái vẫy tay đơn giản.
Hắn bắt đầu nói: “Xin chào lần nữa, Arthur à,” giọng sắc nét và không có chút cảm xúc nào. “Chúa tể Indrath đã yêu cầu ngươi đảm nhận vị trí danh dự này cùng ta. Vì đây là buổi lễ hồi hương và được chủ trì bởi Chúa tể Indrath, chúng ta đóng vai trò là sứ giả của ngài, những người đầu tiên chào đón bất kỳ ai đến viếng.”
Mặc dù ngạc nhiên nhưng tôi vẫn đến đứng cạnh tên Windsom. Tôi đến vừa đúng lúc vì chỉ một hoặc hai phút sau thì có vị khách đầu tiên bước qua cửa.
Gã rồng râu đen trong trận chiến khi nãy vấp vì bước hụt khi thấy tôi, hắn đưa tay lên sờ má. Chẳng còn vết nào trên mặt cho thấy chỗ tôi đã đánh hắn cả, nhưng rõ ràng vết sẹo tinh thần vẫn còn mới lắm. Hắn đã bỏ lại bộ giáp, xuất hiện trong bộ đồ đen sang trọng giống như của tôi.
“Chào mừng, Sarvash của tộc Matali,” Tên Windsom nói và chìa cả hai bàn tay ra.
Gã rồng kia, tên là Sarvash, giơ cả hai bàn tay bắt lấy bàn tay phải tên Windsom. Sau đó, tay trái của tên Windsom chụp vào mu bàn tay phải tên Sarvash.
Họ giữ tư thế nghi lễ này trong vài giây rồi thả ra.
Đằng sau tên Sarvash, một kẻ sống sót khác trong trận chiến ở vùng Sapin đang khoác tay một gã đàn ông khác. Cô ả cũng đã bỏ lại bộ giáp trắng sáng, cũng như khiên giáo, và giờ ả ta tết tóc thành bím dài thả xuống bên vai trái, hoàn toàn nổi bật tương phản với màu tối của bộ váy tang.
Gã đàn ông đang quàng tay cô ả thấp hơn ả một chút và nhìn tròn trịa hơn nhiều. Tóc hắn màu vàng xám, hơi mỏng ở đỉnh đầu. Hắn ta cạo râu nhẵn nhụi, làm lộ rõ đôi má tròn dưới cặp mắt xám u ám. Bộ đồ vải đen rộng thùng thình phủ quanh khung người to lớn của hắn.
Tên Windsom nói: “Chào mừng, Anakasha của tộc Matali,” đưa tay ra nắm lấy hai bàn tay của ả đàn bà kia.
“Windsom của tộc Indrath. Thật vinh dự vì một người có đẳng cấp như ngài chào đón sự hồi hương về lại lục địa Epheotus dành cho người chị đã khuất của tôi. Thay mặt cho bộ tộc của tôi và những người bạn trong tộc, xin cảm ơn ngài.”
“Tôi thật vinh dự làm sao,” Tên Windsom trịnh trọng trả lời.
Cùng lúc đó, gã Sarvash bắt lấy tay tôi, lỗ mũi hắn phập phồng và ánh mắt tập trung nhìn sàn nhà thay vì tôi. Bắt chước tên Windsom, tôi nắm lấy hai bàn tay hắn. Hắn thả tay tôi ra gần như ngay lập tức và tiếp tục đi vào lăng mộ, nơi một trong nhiều người hầu của tên Kezess hộ tống hắn đến cỗ quan tài đặt giữa phòng.
Anakasha, ả em gái song sinh của nhỏ rồng đã chết, đi từ tên Windsom sang tôi. Không giống như gã Sarvash, cô ả nhìn tôi với ánh mắt mãnh liệt đến chết người khi chúng tôi lặp lại lời chào trang trọng.
“Tôi lấy làm tiếc về sự mất mát của cô,” tôi nói an ủi.
Một nếp nhăn nhẹ hình thành chỗ trán giữa hai lông mày khi cô ả hơi cau mày với tôi một chút xíu, sau đó cô ta lùi lại.
Bên cạnh tôi, tên Windsom đang giới thiệu gã asura thứ ba. “Chào mừng Lãnh chúa Ankor của tộc Matali.”
Bọn này trao nhau cái bắt tay trang trọng và rồi hắn đứng trước mặt tôi. Tay hắn tự động chìa ra, dường như hắn không biết gì về sự hiện diện đơn thuần của tôi. Chúng tôi bắt tay lắc, nhưng ánh mắt có viền đỏ hoe của hắn không hề chạm ánh nhìn của tôi, và khi hắn quay đi sau vài giây, hắn nhìn quanh như thể bị lạc cho đến khi con ả Anakasha một lần nữa quàng lấy cánh tay hắn. Một tên rồng khác cúi chào bọn chúng rồi đi theo gã Sarvash và tên rồng ban nãy.
Sau đó có thêm nhiều con rồng đến, một số được giới thiệu là thành viên của tộc Indrath, một số khác từ tộc Matali. Có một vài con rồng từ các tộc khác nữa, và thậm chí cả vài người từ chủng chiến thần (pantheon), mặc dù không có thành viên nào từ tộc Thyestes đến viếng, kể cả Kordri.
Tôi thấy suy nghĩ của mình trở nên lơ đễnh. Lộ trình làm gì tiếp sau khi đến Epheotus của tôi vẫn chưa rõ ràng và phải quyết định điều này đang đè nặng lên tôi. Việc tiếp cận được lão Oludari trước khi tên Windsom đưa lão trở lại Epheotus là thứ lực đè ấy, nhưng cục keystone kia thậm chí còn gây áp lực hơn—và có lẽ đây là lần đầu tôi thực sự có manh mối dẫn dắt, tuy hơi mờ nhạt. Mặc dù vậy, tôi cũng đang bị tách khỏi các đồng đội và gia đình mình, và tôi ngày càng cảm thấy mong muốn được liên hệ lại với họ. Nhưng sẽ cần đưa ra một quyết định và phải sớm thôi.
“Chào mừng Ngài Eccleiah, đại diện của chủng Thuồng Luồng (Leviathan) trong Bát Đại Tộc.”
Tôi tự động với lấy đôi tay tiếp theo, rồi tôi nhìn người mình đang bắt tay và sự tập trung của tôi bị kéo trở về lại hiện tại. Người đàn ông trước mặt tôi khác với lũ rồng cứ như người lùn khác với người elf. Lão ấy có làn da tái nhợt, sáng đến mức gần như hóa xanh lam, và nhăn nheo đến mức trông như lão đã cả trăm tuổi. Điều đó nghĩa là ông lão này có thể đã vượt qua nhiều lần cái số trăm tuổi đó. Những đường gân chạy dọc thái dương ông ấy, bung ra như những cái mang, và bên dưới chúng là đôi mắt có màu trắng sữa.
Bàn tay lão ấy lạnh ngắt khi chạm vào tay tôi, nhưng cái nắm tay thì rất chắc chắn và tự tin. “À, cậu bé Leywin. Cuối cùng cũng gặp.”
“Chào mừng, Tiểu thư Zelyna của tộc Eccleiah,” Tên Windsom đang nói bên cạnh tôi, nắm lấy tay một người phụ nữ trông đáng sợ.
Vẻ ngoài cô ta có chất thủy sinh như ông già này, với làn da màu lam ngọc sẫm đến mức chuyển sang màu xanh nước biển đậm ngay khúc quanh của những đường gờ chạy dọc hai thái dương. Một mớ tóc bù xù màu xanh lục của nước biển mọc lên như kiểu tóc mohawk và bồng bềnh phía trên đầu, trông gần như thể cô ta đang đứng dưới nước vậy. Bộ trang phục tối màu và vẻ mặt cô ta—cũng tối tăm—cả hai điều này đều gợi ý rằng cô ta có thể ở đây để thương tiếc cho ả rồng đã ngã xuống…hoặc để gây sự.
Khi đôi mắt màu xanh lam trông như bão tố của cô ta nhìn tôi, tôi thực sự nghĩ là vế sau hơn.
Bàn tay phải Lãnh chúa Eccleiah thả tay tôi ra, và cánh tay ông ấy quàng qua vai tôi bằng một vẻ thân mật đến bất ngờ. “Hãy để ta giới thiệu cậu với con gái ta, Zelyna. Zely ơi, đây là cậu Arthur Leywin. Con người đấy! Nếu con chưa biết thì họ đến từ vùng đất ở lục địa Dicathen. Thật hấp dẫn phải không?”
Zelyna thả tên Windsom ra như thể tay hắn dính đầy phân, cô ta khoanh tay và trừng mắt nhìn. “Con biết thừa thằng này là ai rồi, cha à.” Một cơ ở quai hàm cô ta giật giật. “Tên hạ đẳng đã giết anh Aldir…”
Tên Windsom hắng giọng. “Xin mời, nếu em tử tế đến vậy, mời em đi vào lăng mộ. Em sẽ tìm được tộc Matali ở đó, như em thấy đấy, hẳn em muốn gửi lời chia buồn.”
Một người hầu trẻ có đôi mắt sáng cúi chào và chìa cánh tay ra cho Zelyna quàng vào, nhưng cô ta phớt lờ cô ấy, thay vào đó chọn cách rặn ra một nụ cười ngọt ngào giả tạo trên đôi môi màu tím của mình. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn, anh Loathsome—ý em là, anh Windsom. Hãy thứ lỗi cho cái lưỡi vấp váp của em, cuộc hành trình đến Núi Geolus là một chặng đường dài.” Nụ cười mỉm vụt tắt và cô ta lại ném cho tôi một cái lườm sắc bén, rồi vội phóng đến chỗ Lãnh chúa Matali mà không buồn đợi cô người hầu.
(Người dịch: Zelyna cố tình gọi nhầm tên thằng Windsom thành Loathsome, đây là một từ trang trọng có nghĩa là “cực kỳ ghê tởm” để đá đểu thằng này vụ dắt lũ rồng đi giết Aldir)
Trong khi đó, Lãnh chúa Eccleiah vẫn đang quàng vai tôi. “Ồ, đừng lo lắng con bé, Arthur à. Con bé khó chịu ra mặt với cậu đúng không? Đúng, nhưng khi cậu hành quyết người đàn ông mà con bé hy vọng sẽ cưới được, tôi chắc chắn cậu hiểu được tại sao lại thế. Là người rộng lượng, cậu sẽ không giữ thái độ thù địch với con bé đâu nhỉ. Hơn nữa, ta thực sự nghi ngờ việc con bé sẽ xiên chết nổi cậu bằng bất cứ thứ gì khác ngoại trừ đôi mắt của nó.”
“Tôi… cái gì cơ?” Tôi chớp chớp mắt nhìn lão asura này.
“À, nhưng, mặc dù ta và Aldir là bạn cũ, nhưng ta đã lãnh đạo người của mình quá lâu đến nỗi không thể không hiểu những chuyện thiết yếu như vậy.” Lãnh chúa Eccleiah dừng lại và nhìn tôi đầy vẻ hiểu biết, mũi lão chỉ cách mũi tôi chừng vài inch. “Nhưng chúng ta đừng nói về câu chuyện buồn này nữa, bởi vì chúng ta đến đây không phải để ủng hộ tộc Thyestes mà là Lãnh chúa Matali và người của ông ấy.” Lão ấy siết chặt vai tôi một cách thân thiện. “Đi nào, hãy tham gia cùng ta và ta sẽ dạy cho cậu lời khóc đám tang truyền thống của chủng tộc bọn ta.”
“Tôi e rằng mình không thể, thưa ngài. Sẽ thật thiếu sót nếu tôi từ bỏ nhiệm vụ của mình—”
“Ồ, ta tin rằng chúng ta là những người cuối rồi,” Lãnh chúa Eccleiah vui vẻ nói khi kéo tôi tách đi khỏi tên Windsom.
Nhưng chúng tôi không lại gần Lãnh chúa Matali hay con gái ông ta, hay thậm chí chỗ quan tài đặt giữa phòng. Thay vào đó, chúng tôi đi vòng quanh cả đống người tham dự và đến góc sau căn phòng này. Khi đến đó, cánh tay gầy gò nhưng mạnh mẽ của lão trượt khỏi vai tôi. Tôi nhìn lướt quanh phòng nhưng chẳng ai để ý đến chúng tôi, có lẽ ngoại trừ cô ả Zelyna; Tôi nghĩ mình đã bắt gặp cô ta ngó đi chỗ khác ngay khi tôi vừa quay đầu qua.
“Ông thực sự muốn gì ở tôi?” Tôi nhẹ nhàng hỏi, đủ nhỏ để chắc chắn rằng chúng tôi không dễ bị nghe lén. “Tôi đã gặp lũ asura đủ nhiều để biết cái thói quen của ông chú già lẩm cẩm này chỉ là một vở kịch câm nhằm hạ thấp sự cảnh giác của tôi thôi.”
Lão thuồng luồng này mỉm cười ấm áp. “Tôi sẽ không trách cậu vì đã nghĩ như vậy. Thật vậy, khi cậu dành toàn bộ thời gian với những kẻ trong tộc Indrath và thậm chí cả tên Wren Kain đệ Tứ, cậu sẽ khó có thể đưa ra bất kỳ kết luận nào khác ngoài như thế. Nhưng để tôi đảm bảo với cậu, tôi không có khuynh hướng cố thể hiện sai về bản thân mình, không phải với cậu hay bất kỳ ai khác. Tôi đã quá già để làm những trò như vậy, và đó không phải là bản chất của chủng loài thuồng luồng. Đó chính xác là lý do tại sao con Zel—thứ lỗi cho tôi, con bé Zelyna—gặp khó khăn đến thế khi cố không thể hiện ra ngoài mong muốn được lấy xương cậu đem xỉa răng.”
Tôi bật cười ngạc nhiên, rồi tỉnh cả người. “Có phải cô ấy và Aldir thực sự…?”
Lãnh chúa Eccleiah mỉm cười trìu mến, nhưng tôi nhận thấy cảm xúc ẩn sau nụ cười đó có vẻ gượng gạo. “À, có lẽ nó phức tạp hơn thế, nhưng tôi sẽ không mạo hiểm làm con bé tức giận hơn nữa bằng cách nói thêm về chuyện đó. Thực sự thì đã rất lâu rồi kể từ hồi người chủng thuồng luồng chúng tôi tổ chức truyền thống cũ mà theo đó thì quyền cai trị được truyền lại cho người trẻ nào chứng tỏ có khả năng giết và ăn thịt cha mẹ mình, nhưng tôi ghét phải cho con gái mình cái cớ để phục hồi lại truyền thống ấy.” Đôi mắt lão ấy lấp lánh trong khi nụ cười dịu lại. “Thứ lỗi cho tôi. Đơn giản tôi chỉ muốn thể hiện sự tò mò của mình về một người hạ đẳng kết khế ước với một con rồng và được tặng cho thể chất của người asura mà thôi. Và với tất cả những điều đó thì tuy cậu không có dấu hiệu mana, nhưng chẳng hề gì. Cậu là sự phát triển thú vị nhất đến từ thế giới cổ đại sau một thời gian dài, rất dài.”
Tôi hỏi: “Thế giới cổ đại á?”
“Có lẽ hầu hết mọi người không nghĩ về nó như vậy.” Một bên vầng trán trụi lông mày của lão nhăn lại. “Nhưng rồi thì, hầu hết người asura đều không nghĩ đến thế giới đó nữa—hoặc không nghĩ đến những người hạ đẳng sống ở đó—không nghĩ tý gì mặc dù vẫn có mối liên hệ cột thế giới của bọn tôi với thế giới của các cậu đấy. Nhưng đừng bận tâm tý gì về chuyện đó. Lão Chúa tể Indrath sẽ đến đây trong giây lát nữa thôi.”
Lão chìa tay ra, lòng bàn tay ngửa lên. Nằm trên lòng bàn tay lão ấy là ba viên ngọc trai nhỏ sáng màu xanh lam. Khi tôi để lão lăn chúng vào lòng bàn tay mình, tôi nhận ra trong chúng chứa đầy chất lỏng. “Một món quà từ bộ tộc Eccleiah dành cho gia tộc Leywin. Mẫu Lệ (Tears of the Mother)… hoặc là những viên ngọc tang, nếu cậu thích gọi thế. Đây là loại thần dược (elixir) mạnh mẽ.”
Tôi nói: “Cảm ơn ngài, Lãnh chúa Eccleiah,” lăn những viên ngọc trai có kích thước cỡ hòn bi trong lòng bàn tay và quan sát chất lỏng sáng màu xanh lam bên trong nổi bong bóng khi chuyển động.
“Gọi tôi là Veruhn. Chúng ta hãy để cái cụm linh tinh như ‘lãnh chúa’ lại cho mấy cuộc họp của Bát Đại Tộc, được không?”
Tôi nói: “Cảm ơn ông, Veruhn. Nhưng…gia tộc tôi đã không làm gì để đạt được món quà như vậy,” cố gắng chuyền tay trả lại chúng.
Ông ấy đáp: “Đây không phải là quà kiểu đạt được,” lùi lại nửa bước. “Đó là một món quà kiểu tôn trọng, kiểu…công nhận cậu. Những thứ như vậy là để cho đi, phải chứ?”
Trước khi tôi kịp phản hồi, một luồng mana bùng lên và một sức nặng đột ngột xuất hiện đè lên người. Nhìn quanh, lập tức tôi thấy thằng Kezess đang đứng cạnh cỗ quan tài, lưng quay về phía tôi. Áp lực giảm đi tức thì.
“Cảm ơn tất cả mọi người đã đến,” hắn ta nói khi mọi ánh mắt đổ dồn vào hắn. “Và xin cảm ơn tộc Matali vì đã cho phép tộc Indrath tổ chức buổi lễ hồi hương này. Thật là một bi kịch với quy mô không gì so sánh được mỗi khi một chiến binh rồng mất đi trước thời hạn sống của người ấy. Tuy nhiên, chúng ta cũng tôn vinh những người hy sinh bản thân để bảo vệ bộ tộc, chủng tộc và quê hương của họ, như cô Akhilasha đã làm khi đối mặt với lũ binh lính của kẻ thù lâu đời nhất của chúng ta, tên Agrona Vritra.”
Có tiếng lầm bầm thù địch khi nhắc đến cái tên Agrona.
“Bây giờ, hãy cùng tôi thể hiện sự tôn trọng của chúng ta đối với người đã ngã xuống. Hãy tự xức dầu bằng máu từ trái tim cô ấy để mà tất cả chúng ta, trong thời điểm này, thành một gia tộc, thành tộc asura, gắn kết cùng nhau từ thời xa xưa cho đến hiện tại, thành một dòng tộc duy nhất trong ký ức của chúng ta.”
Tên Kezess bước vòng tới phía trước quan tài và nhúng hai ngón tay vào chất lỏng màu đỏ. Hắn chạm những đầu ngón tay dính máu đỏ vào thái dương mình, rồi vẩy vài giọt cuối lên bộ giáp trắng của ả rồng đã chết. Bước sang một bên, hắn cúi đầu.
Nhỏ Anakasha bước tới tiếp theo. Khi cô ả nhúng mấy ngón tay vào, cô ả chạm vào ngay dưới khóe mắt phải, một giọt nước mắt đỏ hoe chảy xuống má. Rồi thì cô ả cũng vẩy vài giọt đỏ thẫm lên áo giáp của em gái mình trước khi di chuyển đến đứng cạnh quan tài, hai tay đặt trên quan tài cạnh chỗ ngọn giáo.
Kế tiếp là Lãnh chúa Ankor đến gần cái bát, nhưng ông ta chỉ đứng đó, hương từ từ bốc lên bao quanh khuôn mặt ông ấy. Sau vài giây đợi quá lâu, gã Sarvash bước tới và giúp gã rồng khác thường này thoa máu vào ngón tay của mình. Ông ta bôi bừa bãi chất này lên mặt, rồi vẩy phần còn sót lại khắp bàn thờ quanh cái bát. Gã Sarvash nhanh chóng tỏ lòng tôn kính và họ cùng nhau tiến về phía nhỏ Anakasha.
Tôi cảm thấy Lãnh chúa Eccleiah dựa vào bên hông tôi. “Đi đi. Bọn họ đều đang hóng cậu sẽ từ bỏ nghi thức này hoặc làm sau chót bởi địa vị kẻ hạ đẳng của cậu. Nếu cậu không chờ mà lên sớm thì điều đó sẽ nhấn mạnh rằng cậu ở đây với tư cách bình đẳng để thể hiện sự tôn trọng với người đã chết.”
Chẳng thấy có lý do gì để lão thuồng luồng già này lừa tôi, tôi đứng vào hàng chờ đang dần thành hình. Nhiều hơn một tên rồng nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên hoặc phải ngó lại tôi đến lần thứ hai, nhưng chẳng tên nào can thiệp vào việc tôi hiện diện trong hàng cả.
Khi đến lượt mình, tôi nhúng ba ngón tay vào chất lỏng—sờ vào thấy nó đặc và nhờn—và vuốt nó qua đôi mắt đang nhắm nghiền của mình như người ta vẽ sơn chiến lên mặt trước khi ra trận. Tôi nhẹ nhàng nói: “Tôi không mù khi thấy các người hy sinh,” lặp lại những lời tôi đã nói với em gái cô ta. Từ rìa tầm nhìn của mình, tôi thấy nhỏ Anakasha nheo mắt lại khi cô ả đang quan sát tôi kỹ lưỡng.
Cẩn thận vẩy vài giọt thuốc mỡ cuối cùng lên áo giáp nhỏ Avhilasha, tôi bước sang một bên, đến đứng cạnh tên Kezess, tôi cũng cúi đầu xuống tương tự.
Nghi lễ tiếp tục cho đến khi mọi người đều đã xức dầu cho cả bản thân và người đã khuất. Cuối cùng, bộ giáp cô ta lấm tấm những chấm đỏ đến nỗi trông như thể cô ả vừa mới trở về từ chiến trường vậy.
Sau khi xức dầu, việc tưởng nhớ bắt đầu. Đúng như tên gọi của nó: cuộc đời cô ả Avhilasha được kể lại bởi gia tộc, gia đình, các huấn luyện viên và bạn bè của cô ta. Một ông lão lớn tuổi nói đùa về việc cô ta nở ra đã cầm một ngọn giáo trong tay, trong khi một nhóc rồng non kể lại việc cô ả đã thắng nó khi cùng đấu tập hàng ngày ra sao trong suốt bốn mươi năm liên tục, và dù thằng bé có làm gì đi nữa thì cũng không bao giờ có thể theo kịp cô ta. Em gái cô ả mô tả sự tranh đua không ngừng nghỉ giữa hai người họ vì sự tôn trọng dành cho cha mẹ và lãnh chúa trước khi kể câu chuyện về một cuộc đi săn họ đã cùng nhau thực hiện khi mới bảy mươi tuổi, và em gái đã cố cứu mạng cô ta như thế nào mà vẫn giết được con mãng xà bảy đầu nhưng không bị thương.
Trong hai giờ tiếp theo, những câu chuyện như thế này và nhiều câu chuyện khác đã được chia sẻ, một số thì thú vị, số khác tạo ấn tượng hay thậm chí gây sửng sốt, nhưng tất cả đều nhuốm màu u buồn và mất mát.
Khi xong việc, tên Kezess lại bước tới trước quan tài. “Và vì vậy, chúng ta nhớ đến người chiến binh đã ngã xuống, những việc làm cả lớn lẫn nhỏ của cô ấy, và dòng máu từ trái tim cô ấy đã bện chặt hình bóng của cô vào cuộc sống chung của chúng ta. Xin hãy ở lại bao lâu tùy thích, nuôi dưỡng cơ thể các bạn bằng đồ ăn thức uống của chúng ta, nuôi dưỡng tâm trí các bạn bằng những cuộc trò chuyện và nuôi dưỡng tinh thần các bạn bằng việc chia sẻ đau thương.”
Tiếng trò chuyện trầm trầm theo sau câu nói của hắn giống như một tiếng gầm yếu ớt theo sau vẻ chú tâm trang trọng của phần chia sẻ câu chuyện trước đó.
Tôi để ý thấy một số asura ngay lập tức đến chỗ bộ tộc Matali và dâng tặng một loạt vật phẩm nhỏ. Là quà tặng, tôi đoán thế. Thò tay vào túi, tôi lăn ba viên ngọc trai quanh lòng bàn tay, vẻ băn khoăn tự hỏi. Lén lút liếc nhìn lão Lãnh chúa Eccleiah đang nếm thử một loại sinh vật biển nào đó bị cuộn quanh que xiên, lão ấy chẳng làm gì để gia tăng thêm sự nghi ngờ đột ngột của tôi cả.
Lão đã nói nó là gì ấy nhỉ? “Những thứ như vậy là để cho đi.” Dĩ nhiên là lão thuồng luồng này đã biết về vụ tặng quà. Liệu ông ấy có giả định chính xác rằng tôi không có quà và đã chuẩn bị nó cho tôi từ trước không? Nhưng tại sao chứ? Việc cho đi những gì ông ấy đã cho tôi có phải là một sự xúc phạm không? Tôi nghĩ tới nghĩ lui về những lời nói đó và chốt quyết định.
Khi một tên chiến thần bốn mắt bước lùi khỏi chỗ cô ả Anakasha, tôi lại gần. Tôi giản dị nói: “Tiểu thư Matali,” rút ba quả cầu ra khỏi túi. Tôi đặt chúng trong hai bàn tay khum lại thành hình chén và hơi cúi đầu, đưa chúng ra. “Sự hy sinh của em gái cô là vì người dân của tôi. Tôi biết thứ mình trao cho cô hôm nay đổi lại chẳng là gì so với sự hy sinh của bộ tộc Matali, nhưng tôi muốn cô nhận những thứ này: ba viên Mẫu Lệ để đánh dấu ngày tang thương này.”
Đột nhiên bùng lên tiếng xì xào vang lên khắp lăng mộ, nhưng người phụ nữ asura cao lớn này chỉ nhìn chằm chằm vào lễ vật của tôi, trông có vẻ sốc.
Chính lão Lãnh chúa Ankor là người đã với tay ra nhưng không lấy mấy viên ngọc. Thay vào đó, ông ta đẩy hai bàn tay tôi co lại bọc quanh các viên ngọc trai và nở một nụ cười run rẩy với tôi, đôi mắt ông ấy lấp lánh những giọt nước mắt chưa kịp thành hình.
Gã Sarvash trông xanh xao và chán nản. Bản thân cô ả Anakasha cũng trông khó đoán, ánh mắt cô ả nhìn xa xăm. Chẳng ai trong cả hai nói gì cả, và bởi vậy, với những viên ngọc trai vẫn nắm chặt trong tay, tôi cúi đầu sâu hơn một chút, lùi lại và quay đi, không chắc mình có đọc tình huống đúng hay không. Nhưng tôi đã bắt gặp ánh mắt của lão thuồng luồng già ngay khi quay lại, và ông ta nháy mắt với tôi trước khi nhét một que xiên vào miệng.
Đột nhiên cảm thấy không thoải mái, tôi rời khỏi đám đông, đang cân nhắc xem có nên trả lại món quà của lão Lãnh chúa Eccleiah hay không. Ngay lúc tôi ngó xuống mấy viên ngọc trai thêm lần nữa, lão thuồng luồng kia đã biến mất.
Tuy nhiên, khi không thể tìm ra lão này giữa đám đông, tôi đi dọc theo mép tấm rèm tối che những ngôi mộ của tộc Indrath lại. Tâm trí tôi đang cố chấp nhận xem tại sao lão Veruhn lại tặng tôi một món quà giá trị đến vậy. Để tránh phải suy đoán đến lần hai, tôi truyền aether vào ấn lưu trữ ngoại chiều trên cánh tay của mình và chuyển những viên ngọc trai vào trong đấy, không muốn bất kỳ điều gì xảy ra với chúng cả.
Tưởng nhớ à.
Một vật phẩm khác được đặt trong ấn lưu trữ đang kêu gọi tôi. Tôi cảm thấy một làn sóng cảm xúc dạt dào tràn khắp người mình ngay lúc tôi đang xem xét món đồ này trong tâm trí nhưng chưa rút nó ra ngay lập tức. Liếc nhìn quanh, tôi tự trấn an bản thân rằng chẳng có ai để ý đến mình quá kỹ, tôi lách qua đám dây leo mọc ra hoa màu đen và đi vào cái hốc nhỏ sau mớ dây.
Tôi thở ra phào một hơi mà không hề nhận ra là nãy giờ mình đang nín thở, và vai chùng xuống khi tôi giãn người ra. Tiếng ồn từ những cuộc trò chuyện cố kìm âm lượng lại giờ đã im bạch, cảm giác bỏng rát do biết bao ánh mắt dõi theo tôi đã nguội đi, tôi để mình chìm vào trạng thái cô lập này, trút bỏ lớp vỏ cao quý miễn cưỡng phải khoác lên bên ngoài như một tấm áo choàng.
Quý bà Sylvia Indrath đang quan sát tôi từ bức chân dung trên tường.
Tôi rút lõi của bà ra khỏi ấn lưu trữ, nâng niu nó nhẹ nhàng bằng cả hai bàn tay. Không còn aether hay mana nào trong đấy nữa. Không có thông điệp nhắn nhủ, không có lời gợi ý phải đi tiếp ra sao. Lõi giờ chỉ đơn giản là bộ phận cơ thể trống rỗng, khô héo của một con rồng đã chết. Chẳng bao lâu nữa, cô ả asura nằm trên cỗ quan tài cách chỗ này ba mươi feet cũng sẽ chỉ hơn thế này một chút thôi. Nhưng cô ta đã từng tồn tại. Tôi đã được nghe những câu chuyện của cô ta, chứng kiến sự hy sinh của cô ta. Bất chấp cơn thịnh nộ của bản thân về việc tụi rồng đã không bảo vệ được người dân trên ngọn núi đó, tôi cũng thừa nhận rằng chúng đã sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để chiến đấu với tụi Wraith.
Cái lõi trong tay tôi không phải là bà Sylvia, cũng như cái khiên ngọn giáo nằm bên cạnh Akhilasha không phải là cô ta. Đầu óc tôi vẫn không thể hiểu nổi Nico gửi nó cho tôi nhằm ý gì, nhưng tôi khá chắc rằng bản thân cậu ta cũng không biết. Cậu ấy đang mò mẫm, đào bới tung mọi thứ lên để làm bất cứ gì có thể giúp được cho Cecilia.
Giống y như hồi ở Trái đất vậy.
Tôi nhắm mắt lại, cúi người tới trước và áp đầu vào lớp vỏ lõi thô ráp kia. Tôi đã không ở đây để dự lễ tưởng nhớ bà ấy—thậm chí còn chẳng biết liệu thằng Kezess có tặng bà ấy một buổi lễ như thế hay không—nhưng bà ấy xứng đáng nhận được điều gì đó, cho dù nó nhỏ đến đâu.
Có hai cánh cửa được gắn cố định vào phía trước ngôi đền bên trong chứa những ngọn nến bạc. Tôi mở cửa ra và ở trong là một cái bát nhỏ chứa đầy chất lỏng màu đỏ trông váng như dầu. Có một
cái đế cắm nhang trống rỗng1
không được cắm đang đặt giữa cái bát. Cẩn thận nhúng một đầu ngón tay vào, tôi nhắm mắt lại và ấn ngón tay vào trán giữa hai lông mày.
(Người dịch: ảnh minh họa cái đế cắm nhang – incense holder sẽ để cuối bài. Thêm nữa, vị trí mà Art bôi dầu vào giữa trán cũng là chỗ Sylvia búng đầu Art ngày trước)
“Bà đã mở mang tầm mắt cho con về một cuộc đời mà lúc đấy con còn chưa kịp sống. Bà đã cứu con khỏi cái chết đến quá sớm những hai lần. Bà đã tin tưởng giao phó tầm nhìn về tương lai cho con, một tầm nhìn mà bà sẽ không còn sống để trông thấy. Và”—giọng tôi trở nên thô ráp—“điều quan trọng nhất là chào đón con đến với gia đình bà trên cả danh nghĩa lẫn hành động.” Tôi nhỏ duy nhất một giọt thuốc mỡ lên cái lõi và cẩn thận đặt nó lên cái đế cắm nhang. “Con rất tiếc vì bé Sylvie không thể đến đây, nhưng con sẽ đưa em ấy đến vào một ngày nào đó. Khi em đã an toàn.”
Tôi cẩn thận đóng hai cánh cửa lại và đứng lên, gánh nặng nho nhỏ trên vai được trút bỏ khi tôi để lại đây cái lõi. Đôi mắt từ bức chân dung dường như đang dõi theo tôi, đôi mắt này đã lưu lại chiều sâu hiểu biết khó có thể nhận thức nổi mà bà Sylvia đã thể hiện ra khi còn sống.
Tôi nuốt trọn cảm xúc đang trào dâng trong cổ vào lòng, lách qua đám dây leo và bắt gặp đôi mắt xanh thẫm như đại dương của Zelyna đứng cách đó vài bước chân đang nhìn mình. Cô ta cau mày và quay đi.
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
-
1.
⤴︎
Hình minh họa cái đế cắm nhang - incense holder:
- 2. Giải thích ý nghĩa tên chương: “Remembrance”. Tên này được cắm cài dầy đặc trong chương này, cả lộ liễu ra từ lẫn ẩn ý về nội dung. Nghĩa thứ nhất của từ là “hành động hay quá trình tưởng nhớ một ai đã chết” Với nghĩa này, nó ám chỉ buổi lễ tưởng nhớ con rồng này và cả hành động tưởng nhớ Sylvia của Art, thậm chí là sự nhớ nhung của Kezess cho Sylvia. Nghĩa thứ hai là “một vật dùng để bạn nhớ về ai đó” thì lại để cập đến ba viên ngọc exilir lão thuồng luồng tặng Art và lõi mana của Sylvia được Art để vào lăng mộ. Cho nên tên chương này có thể dịch là “Tưởng nhớ” hoặc “Quà lưu niệm” hay “Vật kỷ niệm” đều được, nhưng nghĩa bao trùm hơn cả vẫn là tựa đề như mình dịch ở trên.
- 3. Tóm tắt: Art đi ăn đám ma con rồng.
- 4. Đi đám ma mà tốn tận 19 trang nói phét, mạnh thường quân nào donate đi ạ 😢
- 5. Đã check in nghiêng (italic) từ bản gốc của tác giả.
- 6. Ver.1: Feb-26th-2024; ver.2: Mar-9th;