Xung quanh các bại binh
Tên gốc: "Chapter 452: Amongst the Fallen"
GÓC NHÌN CỦA LILIA HELSTEA1
Chân tôi bỏng rát khi leo lên con dốc dài của đường mòn ngoằn ngoèo trên ngọn núi. Chống hai tay lên hông, tôi quay lại chiêm ngưỡng đoàn xe nối đuôi dài theo sườn núi ở sau lưng.
Jarrod Redner2
đang đi cạnh tôi, chống tay lên đầu gối và thở hổn hển. “Tôi…không…hiểu…tại sao ta…chọn đi con đường núi…cũ kĩ này,” anh ta nói với vẻ sắp đứt hơi.
(Người dịch: đây là thanh niên đẹp trai hút gái từng học chung học viện Xyrus ngày trước, từng xuất hiện trong ngoại truyện tập 8.5, kẻ đeo đuổi Lilia nhưng Lilia thích người nào các bạn cũng biết rồi đấy. Sẽ để ảnh minh họa nhân vật này và cả Lilia Helstea từ manhwa ở cuối chương truyện)
Mặc dù biết anh ta đang nói cho cường điệu lên nhưng tôi vẫn trả lời. “Chẳng còn chỗ nào ở vùng bắc Sapin cho mấy người này đến nữa cả. Valden, Marlow, Elkshire—mấy nơi này đều không hỗ trợ họ nổi. Dẫu vậy, các làng nông nằm giữa hai thành phố Xyrus và Blackbend vẫn còn chỗ. Và chẳng có tuyến đường nào xuyên qua khu rừng đầm lầy rậm rạp giữa hai Thành phố Marlow và Xyrus đâu.”
(Nguyên văn: hình như tác giả đánh máy sai từ “Elkshire”, theo bản đồ thì phải là “Ekshire” mới đúng)
“Tôi… biết…” anh ta thở hổn nói, đứng thẳng và nhăn mặt khi gắng kiểm soát hơi thở của mình.
Một vài thám hiểm giả có nhiệm vụ canh gác đi ngang qua chúng tôi, rồi đến toa xe đầu. Một bé gái nhìn với vẻ tuyệt vọng về phía mép đường núi trong khi ông của bé đang cầm dây cương điều khiển hai con skitter lớn kéo theo chiếc xe nhỏ của họ. Ba mẹ bé đã chết khi chiến đấu trận pháo đài Bức Tường.
(Người dịch: skitter là tên con thằn lằn kéo xe ở thế giới này)
“Xin chào, bé Kacheri,” tôi nói và vẫy tay nhè nhẹ với bé.
Khi bé không vẫy tay đáp lại, tôi lấy thứ gì đó ra khỏi túi và ném cho cô bé. Bé nhìn nó lướt trong không khí và đáp xuống chỗ ghế kế bên mình với vẻ mặt lơ đãng, thế rồi bé nhảy cẫng lên phấn khích và vội vàng gỡ tờ giấy gói bằng sáp ra.
Đôi mắt cô bé mở to, lấp lánh vì phấn khích khi nhét miếng kẹo caramen dai dai vào miệng.
“Tội nghiệp con nhóc,” Jarrod lầm bầm khi chiếc xe kéo chở cô bé lăn bánh ngang qua.
Có hơn hai trăm người trong đoàn lữ hành của chúng tôi, những người gần như đã mất tất cả giống bé Kacheri, và hy vọng duy nhất họ có là thoát khỏi những ngôi làng nhỏ như Ashber vì họ không thể tự thân sống sót nổi sau chiến tranh nữa. Các gia đình bị chia cắt, mọi người bị bắt làm nô lệ, tài sản của họ bị phá hủy hoặc chiếm đoạt, và khi chiến tranh kết thúc quá đỗi đột ngột, vùng Sapin thiếu đi sự lãnh đạo và cơ sở hạ tầng để gửi trợ giúp hoặc giúp tái xây dựng lại.
Với việc vô số người mẹ, người cha, con gái, lẫn con trai không bao giờ quay về sau chiến tranh, quá nhiều gia đình không thể tồn tại nổi khi ở quá xa thành phố.
Trớ trêu thay, một số người trong đoàn lữ hành là những người mà chúng tôi đã giúp thoát khỏi các thành phố đấy ngay từ đầu, những người đã không thể tự mình mạo hiểm thực hiện chuyến hành trình quay trở lại thành phố và thay vào đó phải chờ suốt nhiều tháng để được hỗ trợ. Một số người trong bọn họ sẽ trở về hai thành phố Xyrus và Blackbend, nhưng những người khác không có nhà cửa, gia đình hay cuộc sống để trở về. Với việc không còn hy vọng cho riêng mình, họ cần ai đó bước vào đời và giúp khơi gợi lại niềm hy vọng đấy giùm họ.
Dùng ngón chân huých một cục đá nhỏ, tôi quan sát khi nó nảy tưng lên rồi lăn xuống dốc núi, tiếng va chạm lạch cạch lặp đi lặp lại khi cục đá này va vào cục đá khác bỗng trở nên im lặng do bị át bởi tiếng lạo xạo liên tục từ bánh xe ngựa và tiếng rổn rảng của rất nhiều tông giọng, cả từ con người lẫn thú mana.
Jarrod im lặng nhưng vẫn duy trì vẻ mặt dũng cảm bề ngoài vì mục đích truyền can đảm cho những người trong đoàn lữ hành đang đi lướt ngang qua.
Ở đằng trước, tôi nghe thấy tiếng lính canh gọi và quay tai về hướng họ.
“Chỉ là thông báo nghỉ ngơi thôi,” Jarrod nói khi thấy vẻ lo lắng ở tôi. “Sẽ mất một lúc để đưa mọi người lên con dốc này, vậy nên chúng ta có thể nghỉ ngơi một chút, phải không?”
Tôi gật đầu, hất ba lô sau lưng nhích lên cao hơn và đi tiếp con đường giờ đã trở nên bằng phẳng khi nó uốn quanh một thung lũng rộng trên sườn núi. “Ít nhất phải mất nửa giờ để đưa mấy cỗ xe kéo cuối cùng lên tận đây, nhưng tất cả chúng ta đều sẽ thoải mái đủ chỗ trên con đường bằng phẳng này.
Jarrod đi len qua khoảng trống giữa một chiếc xe kéo và cả gia đình đang đi bộ theo sau, rồi phi nhanh tới chỗ một tảng đá lớn nứt làm đôi nằm ở mép đường do rơi từ trên núi xuống. Nhìn vị trí của tảng đá mà đoán, thì có vẻ như từ lâu rồi trước đây đã có ai đó di chuyển nó bằng phép thuật và giờ nó làm thành một chiếc bàn tiện lợi để Jarrod lôi ra một vài hộp đồ ăn.
Tôi làm theo tương tự, giờ thì đã cảm thấy cái động tác rút đồ này tiện nghi rồi đấy. Lôi ra một số thứ từ vật tạo tác không gian ngoại chiều của riêng mình, tôi bày chúng ra chia sẻ với anh ấy, sau đó lấy một quả táo và cắn “rụp” một miếng.
Một người phụ nữ dạng to lớn trong bộ quần áo sáng màu huýt sáo khi đi ngang qua chúng tôi trên cỗ xe ngựa (chariot) nhỏ được kéo bởi một con chim lớn cũng gần như sáng màu giống chủ nhân nó vậy. “ y, Jarrod Redner, khi nào thì cậu định mời tôi hẹn hò ăn trưa một bữa thế?”
(Người dịch: cỗ xe dạng chariot kiểu La Mã sẽ có hình ở chương sau nhé)
Má Jarrod đỏ bừng, và miệng anh ta mấp máy trong im lặng khi cố tìm câu trả lời.
“Có lẽ là khi mà chị xuất hiện không làm anh ấy đỏ mặt với á khẩu, chị Rose-Ellen à,” tôi đáp trả, rồi che miệng cười.
“Than ôi,” chị ta la lên, quay xe lại và vuốt thẳng cánh áo choàng đang ôm sát thân, “Tôi sợ rằng đời mình tàn rồi vẫn chỉ nghe mỗi tiếng lặng thinh từ đôi môi chỉ mấp máy hôn gió của anh ta thôi.” Chị ấy nở một nụ cười xảo quyệt với tôi. “Đâu như em, Tiểu thư Helstea à.”
Tôi vẫy tay ra hiệu cho chị ta im lặng, rồi giấu nụ cười của mình sau quả táo, chầm chậm cắn một miếng.
Jarrod thong thả xé một miếng ra khỏi khối thịt khô và gặm thành từng mẩu nhỏ, nhìn khắp nơi trừ tôi. Sau một phút, anh ấy hắng giọng và nói: “Em có bao giờ nghĩ về…trước đây không? Kiểu như, hồi ở Học viện Xyrus, và cuộc sống sẽ ra sao nếu người Alacrya không tấn công?”
“Chắc rồi,” tôi trả lời, lơ đãng xoay quả táo trên tay. “Ngay cả khi biết nghĩ vậy chẳng ích lợi gì, thì cũng thật khó để em không nghĩ tới nó.” Tôi do dự, rồi bắt gặp ánh nhìn của Jarrod. “Anh đang nghĩ gì thế?”
“Tôi chỉ…” Anh dừng lại và cắn một miếng, nhai chậm rãi. “Kể từ lúc có cuộc tấn công vào học viện thì mọi điều xảy ra đều…khủng khiếp, em biết chứ? Nhưng…” Anh ta cựa mình ở chỗ đang ngồi, mắt đảo quanh khi lựa lời để nói, và tôi nhận ra anh ấy trông có vẻ… tội lỗi. “Tôi không muốn nói với vẻ như đang xem nhẹ nỗi kinh hoàng mà những người này đã phải đối mặt—điều mà mọi người ở Dicathen đã phải đối mặt, như với loài elf, như với cô nhóc kia, nhưng…”
Anh ấy thở dài đầy bi đát và rốt cuộc cũng nhìn tôi. “Tôi chỉ muốn nói rằng, tôi thích việc này. Tôi…thích những gì chúng ta đang làm. Giúp đỡ những người này nhỉ? Dành thời gian…ừm, tạo ra sự khác biệt thực sự, tôi đoán thế. Nếu không có chiến tranh—nếu em không cứu mạng tôi khi tôi đã cố giết em đúng theo nghĩa đen luôn, thì tôi không biết giờ mình sẽ trở thành ai nữa. Nghĩ vậy… tệ lắm nhỉ, tôi đoán thế, về chuyện tôi thích con người hiện tại của mình hơn chăng?”
Tôi cảm thấy lệ đang dâng lên sau mắt và nhanh chóng chớp chớp mắt để gạt chúng đi. “Không, em không nghĩ chuyện đó là xấu.” Tôi hắng giọng nhưng không biết phải nói gì nữa.
Cảm nhận được vẻ lúng túng, Jarrod cười khúc khích. “Nói đến việc cứu mạng tôi, tôi nghĩ Tanner đang leo lên sườn núi đằng kia, thấy không? Ai có thể ngờ rằng rốt cuộc tôi lại làm việc cùng với gã cưỡi con cánh đao (blade wing) đó nhỉ? Tôi thề là mình vẫn gặp ác mộng về con Velkor…”
Tôi che tay trước miệng cười khúc khích. “Anh nên thể hiện ra là mình đề cao con thú mana kia hơn một chút đi vì nó đã giúp anh chạy thoát khỏi thành phố Xyrus đấy.”
“Nói mồm thì dễ thế thôi,” Jarrod la lên, vung miếng thịt khô về phía tôi. “Em không phải cưỡi con thú đó. Tôi thề, tôi thực sự vẫn không chắc gã Tanner có biết cách kiểm soát nó hay không nữa.”
“Chà, dường như giờ anh ta đã chỉ huy nó đủ tốt rồi—” Tôi bất giác thốt ra tiếng thở hổn hển, và nhảy dựng lên khi toàn thân lạnh cứng vì kinh hãi.
Con cánh đao đang nghiêng ngả điên cuồng, bay vội vã và thất thường chỉ trong giây lát trước khi một luồng ánh sáng màu xanh lục phóng xẹt qua bầu trời và đánh trúng người nó từ phía sau. Anh Tanner cùng con Velkor mất kiểm soát, và hình bóng con cánh đao này biến mất khỏi tầm mắt từ đằng xa khi nó lao bổ nhào từ trên trời xuống.
Bốn bóng đen, lúc đầu chỉ là những đốm nhỏ, nhanh chóng lớn dần khi chúng đến gần, sát khí từ chúng tỏa rộng ra phía trước bọn này như một làn sóng mana màu đen nghiền nát mọi thứ.
Tôi hét lên: “Lính canh ơi!” lao nhanh về phía đầu của đoàn xe lữ hành. Jarrod không chần chừ theo ngay sau tôi, gió quấn quanh tay chân anh ấy.
Các thám hiểm giả đã bắt đầu xếp thành đội hình, một số người tạo ra những lớp khiên phép xung quanh những người tị nạn, những người khác niệm chú và chuẩn bị các đòn phép tấn công để đánh bật lại bất cứ thứ gì sắp đến gần.
Nhưng tất cả bọn tôi đều cảm nhận được sức mạnh từ dấu hiệu mana không hề dấu diếm gì của bọn chúng, và tôi đã thấy những cái nhìn ngó qua lại lẫn nhau của các lính canh với đầy vẻ vô vọng và nghe được giọng nói run rẩy ở họ.
Những tiếng la hét vọng xuống đoàn xe, khiến các cỗ xe kéo nối đuôi nhau dừng lại. Hầu hết những người bọn tôi đang hộ tống đều không phải pháp sư, và họ không thể cảm nhận được thứ gì đang đến gần, cũng như không nhìn thấy Tanner bị bắn từ trên không, nhưng họ nhìn thấy các chú phép phòng thủ đang được thi triển, và điều đó đủ để khiến họ rơi vào tình trạng hoảng loạn.
Tuy nhiên, không có thời gian để tổ chức lại đội ngũ. Chúng tôi không thể quay lại, bỏ chạy hay lẩn trốn. Khoảng cách từ con đường này đến sườn núi khúc ban nãy con cánh đao xuất hiện như thể biến mất khi những bóng đen kia lao xuống chỗ chúng tôi với khoảng thời gian tưởng chừng chỉ vài giây.
Diane Whitehall3
, một trong những thám hiểm giả dẫn đầu đội bảo vệ đoàn xe lữ hành của chúng tôi, sạt tay xuống và hét lên, “Tấn công!”
(Người dịch: Diane Whitehall là một thám hiểm giả hạng C vụng về chuyên dùng thủy thuật, đã gặp ở chương 48 trong manhwa khi Note cùng Jasmine đi làm bài kiểm tra nâng hạng. Sẽ để ảnh minh họa nhân vật này của manhwa thời còn trẻ ở cuối chương truyện)
Tôi nín thở khi một loạt phép thuật phóng lên không trung.
Chẳng đòn nào dính được mục tiêu của nó cả.
Băng đen kết tinh quanh chân những người phòng thủ tuyến đầu của chúng tôi. Băng ngưng tụ thành gai và đâm thọt lên, xuyên qua lớp phủ mana quanh người, qua áo giáp, rồi đến xương thịt một cách dễ dàng.
Tôi nghe thấy tiếng áo giáp lưới bị xé toạc và tiếng xương gãy. Đàn ông và phụ nữ hét lên, rồi nín thinh khi hình dáng cơ thể vốn bình thường của họ hóa thành một mớ hỗn độn bị cắt thành mảnh vụn nhuộm đỏ lớp băng đen.
Phía sau họ, tuyến phòng thủ thứ hai loạng choạng lùi lại, các phép thuật phòng thủ nhấp nháy tắt, không có loạt hỏa lực nào đáp trả đàng hoàng vì sự kinh hoàng của màn trình diễn vừa nãy đã cướp đi sức mạnh của ngay cả những chiến binh cứng cỏi.
Diane ra lệnh: “Lùi lại!” giọng điệu chỉ huy của chị bị lấp át đi bằng tiếng hét điên loạn ở xung quanh, nhưng chẳng còn chỗ nào cho bọn tôi lùi nữa cả.
Lớp sương màu xanh lục cuồn cuộn bốc lên từ những gì còn sót lại ở các xác chết, nhấn chìm những người còn sống. Tôi sớn đến mức không quay đi nổi khi thấy da thịt họ bắt đầu chảy xuống khỏi cơ thể như sáp nến lỏng chảy khỏi đèn cầy, những tiếng kêu hấp hối từ họ vang lên ùng ục kèm mật với máu. Khuôn mặt đầy tàn nhang cùng mái tóc xoăn của chị Diane bong ra đến nỗi lòi cả hộp sọ bên trong, rồi chị ấy gục xuống.
Mấy con skitter kéo xe thồ ở phía đầu tranh nhau lùi lại, bỏ chạy, giật dây cương và cào vào ghế lái, xé cơ thể người ông của bé Kacheri ra thành từng mảnh. Rồi thì cái thứ sương mù kia ập vào nguyên cỗ xe, và rốt cuộc tôi cũng quay đi được, không thể nhìn nổi điều gì sắp xảy ra tiếp theo sau, không thể cảm nhận đến cả mana của mình và chỉ còn cảm giác tê dại đến phát bệnh đang siết chặt cơ thể và tâm trí tôi.
(Người dịch: tác giả không muốn đụng chạm chuyện trẻ con chết nên để Lilia lấy lại kiểm soát và quay mặt đi để khỏi tả, tất nhiên là bé Kacheri này ngồi trong cỗ xe đã chảy tan ra như đụng axit rồi)
Đột nhiên Jarrod tóm lấy tôi, kéo tôi lùi lại tránh khỏi màn sương trong lúc nó cũng nuốt chửng tiếp chiếc xe kéo thứ hai và thứ ba đang đứng theo hàng. Mọi thứ đều gào thét…ngọn núi đang tự lật nhào, lộn ngược lại như thể muốn ném chúng tôi lên trời…
Tôi khuỵu gối xuống và đến là phát bệnh trong mớ khói bụi.
Tôi đã tham gia cuộc chiến tranh này theo cách của riêng mình. Tôi đã chiến đấu, tôi đã giết chóc…nhưng tôi chưa bao giờ chứng kiến cái chết khủng khiếp và đột ngột như vậy. Ngay cả trong những ngày tệ nhất khi người Alacrya chiếm đóng thành phố Xyrus, tôi cũng chưa từng trải qua điều gì như thế này.
“Niệm một phép nữa là chết,” một tên trong số mấy cái bóng kia lên tiếng, dựa trên tông giọng tôi đoán đấy là một mụ đàn bà.
Tôi run rẩy, nhìn mụ ta đáp xuống giữa bãi giết chóc từ cuộc tấn công của bọn chúng, màn sương tan dần quanh ả. Mụ này có mái tóc đen tuyền, đôi mắt đỏ…và cả sừng nữa.
Vritra, tôi nghĩ trong đầu, là một từ vốn chỉ có nửa phần ý nghĩa với tôi cho đến thời điểm này đây.
Mụ tiếp tục nói: “Rút vũ khí ra là chết,” bước về chỗ một nhúm thám hiểm giả vẫn đang thở hổn hển. “Chạy là chết. Làm tao khó chịu…là chết.” Mụ ta dừng lại, đứng cạnh tôi, ánh mắt đỏ thẫm quét qua phía trước đoàn xe lữ hành. Tôi có thể nghe được giọng mụ này truyền lan xuống tận sườn núi, vang vọng đến mức nghe được tiếng mụ ta ngay cả khi đứng từ tuốt đuôi đoàn xe cách đây nửa dặm. “Đứa nào đại diện cho tụi mày?”
“Tôi—là tôi,” tôi nói một cách yếu ớt, mặc dù nghiêm túc mà nói thì điều này không đúng. “Đại loại thế, tôi đoán vậy.” Tôi quơ quào đôi bàn tay như sắp ốm của mình vốn đang sờ soạng trên nền bụi đất rồi vật vã đứng dậy. “Đây không phải là…chúng tôi chỉ đang giúp mọi người di chuyển đến những thị trấn còn sống được, chỉ vậy thôi. Chúng tôi không vận chuyển bất cứ thứ gì có giá trị…ngoại trừ mạng sống con người.”
Mụ đàn bà này mỉm cười, biểu cảm tàn nhẫn trên khuôn mặt trơ trơ. “Tiện đấy, vì đó chính xác là những gì bọn tao cần ngay bây giờ.” Mụ quay đầu qua ngang vai nói: “Raest, đi về phía đuôi đoàn xe. Hãy đảm bảo rằng không có đứa nào trở nên dũng cảm ở đây hết.”
Tên Raest bị bỏng nặng và mất gần hết một cánh tay, nhưng về bề ngoài hắn chẳng hề tỏ ra đau đớn khi gật đầu hiểu ý và bay xuống cuối đường.
Mụ ta tiếp tục: “Varg, hãy giao vị Chúa tể đáng kính kia cho Renczi và hỗ trợ ta sửa soạn,” đôi mắt đỏ xuyên thấu của mụ liếc về phía bầu trời.
Gã đàn ông thứ hai được nhắc tới đáp xuống cạnh mụ ấy. Hắn có khuôn mặt lép và sắc nét với cái cằm dài cong và cặp sừng ngắn đâm ra từ hai bên thái dương phía trên đôi mắt nhỏ. Trên vai hắn đang vác một người dáng khom úp xuống. Hắn ta bước đến gần mụ đàn bà này và nói nhỏ giọng đến mức chỉ hơi vừa đủ nghe. “Cô có chắc đây là ý hay nhất không, Perhata? Chúng ta có thể—”
Mụ ta nhe răng ra với hắn, làm hắn im miệng. “Hiện tại, chúng ta đã có gã Chúa tể nhưng không có thiết bị dịch chuyển di động, bởi vì thiết bị của chúng ta đã nổ tung cùng thằng Cethin rồi. Chúng ta cần gửi một tín hiệu đi, và cái lũ Dicathen không ấn này sẽ che chắn cho chúng ta phòng trường hợp lỡ chúng ta có…bạn đồng hành.”
Sự tập trung của mụ này chuyển sang tôi, độ chú tâm sắc nét hơn hẳn. “Tĩnh mạch mày đập nhanh hơn khi nghe được lời tao nói, như thể nó mang lại hy vọng cho bọn mày vậy.” Mụ ta nhe cặp răng nanh thon dài ra và nghiêng người lại gần. “Hãy biết rằng nếu bọn mày sống sót sau vụ này, đó là vì bọn mày làm đúng y như những gì tao nói. Đó là vì tao đã tha cho bọn mày. Đừng tìm kiếm hy vọng nào từ ngoài kia, hiểu chưa?”
Nuốt đi cục nghẹn giữa họng, tôi gật đầu. Khi mụ ta giơ tay về phía mặt tôi, tôi giật mình lùi lại, nhưng mụ ấy nhanh hơn, những ngón tay của mụ bóp chặt lấy má tôi. “Đi đi bé con. Làm người của mày bình tĩnh lại. Giải thích rằng chúng cần phải làm gì. Hãy đảm bảo rằng tụi nó hiểu việc có tồn tại được tiếp hay không nằm chắc trong bàn tay của tụi nó đấy.”
Mụ ta đẩy nhẹ khi thả tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngửa ra sau.
Jarrod chụp lấy cánh tay để đỡ tôi đứng vững. “Lilia, em định…” Anh ấy ngừng nói, dùng cổ tay áo lau mình đi vết nôn đang dính trên môi tôi, rồi thì thầm, “Chúng ta phải làm gì đây?”
“Những gì mụ ta nói,” tôi xác nhận. “Đi nào, ta hãy giúp cho những người tội nghiệp này tránh không bị giẫm đạp rơi khỏi sườn núi.”
(Nguyên văn: “Come one” Có lẽ tác giả đánh máy sai từ “Come on”)
Bất chấp những lời lẽ đầy tự tin của bản thân với Jarrod, khi hai tôi đi dọc theo chiều dài đoàn xe lữ hành, nói chuyện với hết gia đình này đến gia đình khác, tôi không khỏi cảm thấy gian dối khi bản thân đang nỗ lực lan tỏa sự bình tĩnh. Rốt cuộc, chẳng phải tôi đã đứng cứng đờ cả người ra khi một đứa bé bị hành quyết nhẹ nhàng bởi sự tàn ác của bọn chúng sao, và giờ đây tôi đang nhảy phóc đi làm theo lệnh mụ đàn bà đó, ả là Perhata…
Có lẽ như thế này có lợi hơn khi bốn tên pháp sư mạnh mẽ kia bay quanh đây và niệm phép, quầng hào quang (aura) đầy vẻ hành hạ người khác của bọn chúng cứ như sức nặng từ cơn giông bão sắp kéo tới, bởi vì hầu hết những người mà chúng tôi đang chăm sóc đều quá sợ hãi để làm bất cứ gì khác ngoại trừ làm chính xác như những gì họ được bảo. Giống như tôi vậy.
***
“Chỉ cần ở bên gia đình chú và giữ bình tĩnh,” tôi nói với một người đàn ông trung niên có sáu đứa con đang thút thít trong xe của họ. Bốn con bò rừng kéo cỗ xe lớn ngọ nguậy với vẻ căng thẳng, nhưng ông ấy vẫn gìm chặt chúng trong tay. “Cháu tin rằng khi bọn chúng đạt được điều mình muốn, chúng sẽ mặc kệ chúng ta thôi.”
Tôi mỉm cười và ghét chính mình vì điều này. Có phải tôi đang nói dối người đàn ông này không? Chẳng cách nào để tôi biết được, và điều đó khiến lòng tôi tan nát.
Khi tôi đi cách ra hẳn khỏi toa xe của ông ấy, có lẽ nó nằm ở giữa dòng xe kéo, xe thồ và những người đi bộ lúc họ đang lết lên sườn núi, mặt đất dưới chân tôi ầm ầm rung chuyển.
Ở đâu đó sâu bên dưới chúng tôi, đất đá đang nổ tung.
Tôi thở hổn hển khi mắt cá chân vấp phải một tảng đá, và bốn con bò rừng kia lao về phía đuôi chiếc xe kéo nhỏ ở đằng trước chúng. Người cha của lũ nhỏ hoảng sợ hét lên, giật dây cương một cách vô vọng trong khi những đứa con của ông ở sau tấm vải dày che phủ toa xe hét lên. Những con bò rừng dẫn trước đang chúi đầu xuống và đâm sầm vào đuôi xe kéo, làm gỗ vỡ vụn và văng tứ tung ra lề đường.
Người phụ nữ kéo xe một mình kêu ré lên vì ngạc nhiên và kinh hãi, còn mấy con skitter kéo xe của bà ấy rít lên và cố gắng lao lên sườn núi phía trên, kéo theo chiếc xe hỏng đằng sau.
Những con thằn lằn này rít lên thậm chí còn khiến lũ bò rừng sợ hãi hơn nữa, và những con thú này rẽ sang phải để vòng qua cỗ xe kéo nhỏ hơn, làm chúng—và cả gia đình mà chúng đang chở—hướng về mép đường nghiêng vuông góc với thân núi.
Tôi với tay ra, kiểm soát lượng mana thủy hệ vốn rất hạn hẹp trong bầu khí quyển nơi đây và ngưng tụ nó thành một bức tường ngay trước khi đám bò rừng lao qua một bên. Những con thú này va mạnh vào tường và bị đẩy thẳng tới trước, giữ cho bọn chúng vẫn đứng trên mặt đường khi chạy dọc mép tường, chiếc xe thồ va vào tường nước đằng sau chúng và bị dội bật ngược ra.
Chìa cả hai tay đẩy tới trước, tôi biến bức tường thành một làn sóng lướt qua mặt đất dưới chân toa xe, đẩy nước vào xuống bụi đất và sỏi đá, làm chúng mềm đi hóa thành một lớp bùn dày để bám vào bánh xe.
Cỗ xe thồ trượt sang một bên trong khi lũ bò rừng cố gắng vòng qua chiếc xe kéo tiếp theo đang xếp theo hàng. Tôi tạo ra một bức tường khác bên hông chúng, ngăn chúng rẽ quá xa sang phải và lao xuống con dốc chết người bên dưới, nhưng ta đã rõ điều gì sẽ xảy ra nếu những con thú đang bỏ chạy này biến đoàn xe lữ hành của chúng tôi thành một vụ giẫm đạp toàn diện.
Tập trung nhiều lực nhất có thể đằng sau bức tường nước, tôi ngưng tụ nước thành hình lưỡi hái, thả lưỡi kiếm lỏng vừa tạo ra này cắt ngang qua yên cương nối những con thú với cỗ xe. Gỗ và da vỡ vụn, lũ bò rừng rống lên kinh hoàng, nhảy khỏi mặt đường. Trong giây lát, chúng tụ lại thành nhóm, đồng loạt lao xuống sườn núi dốc, và rồi một con trong số chúng sảy chân.
Tôi ngó đi chỗ khác, không tiêu hóa nổi cảnh tượng theo sau đấy.
Chiếc xe nằm nửa thân trên mặt đường, tiếng la hét hết hơi của những đứa trẻ đang sợ hãi vẫn phát ra từ bên trong xe. Với mấy cái bánh xe mắc kẹt trong lớp bùn dày, tạm thời nó vẫn ổn định, nhưng tôi không lãng phí thời gian lao về đuôi xe và xé toạc lớp vải phủ ra. Sáu khuôn mặt nhợt nhạt nhìn chằm chằm vào tôi ngay lúc cha của tụi nhỏ vật vã với tới chúng từ đầu bên kia của cỗ xe.
“Nào, ra ngoài, ra ngoài!” Tôi thúc giục, vẫy tụi nó về phía tôi.
Hai đứa con gái lớn ôm lấy hai đứa em út của mình và chạy vội về phía tôi. Hai đứa còn lại giành nhau thoát ra đầu trước, nơi ba chúng đang kéo ra chúng qua khe hở. Trọng lượng xe thay đổi, vì bùn làm cỗ xe trượt sang một bên.
Tôi tóm lấy hai đứa trẻ đầu tiên và kéo chúng ra an toàn. Khi tôi với đến cặp thứ hai, chiếc xe lại trượt tiếp, đứa lớn hơn hét lên và trượt chân khi sàn gỗ của cỗ xe chao đảo dưới chân nó.
Một cơn gió thổi mạnh vào bên thành xe, đẩy nó về phía tôi. Con bé lao tới, tôi tóm lấy nó và nhấc lên, kéo con bé ra khỏi boong xe và thả xuống nền đất cứng.
Jarrod chạy lên, niệm ra luồng gió mạnh và từ từ đẩy chiếc xe trở lại mặt đường.
Phía trên chúng tôi, hai con skitter leo bám vào chỗ sườn núi, chiếc xe kéo bị hỏng phân nửa treo lủng lẳng bên dưới chúng. Người lái xe nằm trên bãi đất cách đó chục feet, đang ôm khuỷu tay bị bầm tím nặng và chửi rủa những con thú mana của bà ta.
Một luồng hào quang chết chóc tiến đến, tôi nhìn lên và thấy tên Vritra một tay, Raest, đáp xuống giữa chúng tôi. Hắn ta từ từ nhìn quanh, đôi mắt nheo lại thù địch. “Giữ trật tự người của mày đi, gái à.”
Sự tức giận và lo lắng của tôi đã vượt qua khả năng kiềm chế, và tôi bước đến trước mặt gia đình đang co rúm lại và trừng mắt nhìn thẳng hắn ta một cách dữ dội. “Dù ông đang làm gì thì cũng có cảm giác như việc đó sẽ khiến cả ngọn núi sụp đổ cùng với chúng ta vậy! Phép thuật của ông khiến một số thú mana sợ hãi, và những người này gần như—”
Tôi nghẹn lời khi sát khí của hắn quấn quanh cổ họng tôi như một nắm tay đầy móng vuốt. Mắt lồi ra, tôi cào cào vào cổ nhưng không gượng thở nổi.
Tên Alacrya này bước lại gần hơn. “Đừng nghĩ rằng bọn tao cần mày nhiều đến mức khiến chúng tao sẵn sàng chịu bị coi thường, gái à. Có lẽ những đứa còn lại trong cái lũ thảm hại này sẽ dễ bảo hơn nếu tao lôi ruột mày ra trải từ đầu này đến đầu kia đoàn xe lữ hành chăng?”
“Làm ơn đi, thế là đủ rồi ạ!” Jarrod hét lên và chạy đến cạnh tôi. “Chúng tôi hiểu rồi, được chứ?”
Tên Raest nhìn Jarrod với vẻ khinh thường, sau đó bay lên không trung và biến mất, quầng hào quang của hắn cũng rút đi.
Tôi khuỵu gối quỳ xuống, nước mắt chảy dài trên má và thở dốc. “Thật ngu ngốc…” Tôi hổn hển, lắc đầu và giận dữ lau nước mắt.
Jarrod nói: “Tôi biết thân biết phận rồi mà,” quỳ xuống cạnh tôi.
Tôi thở khò khè khó chịu, nửa cười nửa khóc. “Không phải em nói anh. Đáng lẽ em không nên—”
“Đừng bận tâm đến điều đó,” anh khẳng định, chìa tay cho tôi. Khi tôi cầm lấy tay, anh đã giúp tôi đứng lên. “Đi nào. Có rất nhiều người ở đây nhìn vào chúng ta để tìm ai đó chỉ đạo họ đấy.”
Biết anh ấy nói đúng, tôi đứng thẳng lên và gắng hết sức để trấn tĩnh lại. Chúng tôi đã giúp người phụ nữ kia thả mấy con skitter ra khỏi cỗ xe hỏng. Vài gia đình khác đã đến tìm nơi cho cái gia đình đông người kia nương nhờ và phân phối lại hàng hóa chứa trong cỗ xe giờ đã thành vô dụng với gia đình này.
Tôi chợt nghĩ, giả sử chúng tôi không đời nào rời khỏi sườn núi này được thì sao. Nhưng rồi, có lẽ điều đó nghĩa là họ vẫn còn chút hy vọng. Nếu không thì tại sao phải bận tâm làm gì?
Cảm thấy tốt hơn một chút, tôi và Jarrod tiếp tục đi dọc theo đoàn xe, cố hết sức để giải thích những gì đang xảy ra và đưa ra lời an ủi cũng như hướng dẫn khi cần thiết.
Phải mất gần hai tiếng đồng hồ mới đến được cuối đoàn xe, nơi tên pháp sư cụt một tay kia đang canh chừng con đường để đảm bảo không ai cố quay đầu bỏ chạy. Trong khi đó, ngọn núi tiếp tục rung chuyển như núi lửa sắp phun trào, và những kẻ bắt giữ bọn tôi không đưa ra thêm lời giải thích nào cả.
Một cơn gió buốt giá bắt đầu thổi xuống sườn núi, khiến không khí trở nên lạnh lẽo, và hầu hết mọi người đã rút vào trú trong các cỗ xe thồ có bạt che để quây quần bên những vật tạo tác sưởi ấm hoặc đốt lửa và dựng lều dựa vào chân vách đá giáp đường đi. Với chiếc áo choàng kéo chặt phủ quanh vai, tôi rời khỏi chiếc xe kéo cuối cùng trong đoàn lữ hành và bắt đầu quay trở lên núi cùng Jarrod.
Anh ấy hỏi: “Em có cảm thấy nó không?” dừng lại và nhìn về hướng tây, dùng tay che mắt khỏi ánh nắng.
“Không thể nào…” Tôi thở ra, lời lẽ không khác gì tiếng rên rỉ.
Các dấu hiệu mana, mạnh mẽ như dấu hiệu của bọn pháp sư Alacrya đã bắt bọn tôi làm tù binh, đang tiến đến rất nhanh. Trong chốc lát, tôi nhận ra được một nhóm gồm năm dáng người đang lao nhanh trong không trung về phía bọn tôi.
Con mụ Perhata và thằng Varg đứng dậy đón chúng. Năm tên mới đến đều có sừng và mắt đỏ, giống như mụ Perhata và đồng đội của mụ ấy vậy, và tôi có cảm giác như ít nhất mỗi tên đều mạnh mẽ như một pháp sư lõi trắng…
Chín kẻ mạnh như vậy, tôi nghĩ cùng nỗi khiếp đảm. Làm thế nào một chuyện như vậy lại có thể xảy ra cơ chứ?
“Có lẽ bây giờ chúng sẽ thả chúng ta đi,” Jarrod nói đầy vẻ hy vọng. “Nếu chúng đạt được thứ mình muốn thì chẳng có lý do gì để chúng làm hại ta, phải không?”
Tôi không thể đồng ý với anh ấy, tâm trí tôi cứ luẩn quẩn quanh những trận động đất đã làm rung chuyển ngọn núi trong vài giờ qua.
“Có lẽ tôi đã lờ mờ nghe được bọn chúng đang nói gì…” Jarrod thì thầm, niệm một chú phép.
Một làn gió nhẹ dường như thổi ngược chiều với cơn gió lạnh tràn xuống từ phía đông, chỉ thổi bao quanh người Jarrod.
(Người dịch: chú phép phong hệ Jarrod vừa tạo ra là loại chú phép cản tiếng ồn và chống xung quanh nghe lén)
“Bọn chúng… đội Wraith, tôi nghĩ chúng được gọi như vậy. Đội Wraith là gì? Gã đàn ông mà chúng bắt được, ông ta là một Chúa tể, mặc kệ từ đó nghĩa là gì đi. Bọn chúng đang chờ một trong những thiết bị dịch chuyển tức thời của mình, nhưng những tên mới đến này—bọn chúng đã hồi đáp lại một loại tín hiệu nào đó mà con mụ Perhata gửi đi—chúng chẳng có lấy đến một thiết bị đâu. Bây giờ chúng đang tranh cãi, và—ồ, ồ không. Chết tiệt…”
Có tiếng ướt át nho nhỏ, và máu tươi bùng ra như hoa nở trên ngực Jarrod. Anh ta nhìn tôi ngạc nhiên và bối rối, miệng há ra rồi ngậm lại, và ngã xuống đất. Ở đâu đó, một tiếng hét vang lên như tiếng chuông báo động từ xa xăm, bị lu mờ bởi tiếng nhịp tim đập thình thịch trong tai tôi.
“J-Jarrod ơi…?”
Tôi đổ người xuống bên cạnh anh, áp tay vào ngực anh ấy. Có một vết rách nhỏ trên áo sơ mi của anh, và dưới vết rách là nguyên một lỗ xuyên thấu da thịt. Máu đang chảy thành vũng xuống người anh.
Bàn tay anh chạm vào má tôi, bôi máu khắp mặt tôi, rồi tay từ từ sụp xuống cạnh hông anh. Một tiếng rên đau đớn thoát ra khỏi môi anh ấy, và rồi anh bất động, ánh sáng mờ dần khỏi mắt.
Tất cả những gì tôi có thể làm là nhìn chằm chằm vào thi thể của bạn mình một cách kinh hãi.
Bằng một sự chậm rãi đến khó tin, tôi quay đầu về nơi đám Wraith bay phía trên bọn tôi. Chúng thậm chí còn không buồn nhìn…
Mọi người đang di chuyển quanh tôi, đi đến ngó để rồi chỉ dừng bước giữa chừng và lùi lại khi họ nhận ra Jarrod đã chết, nhưng tôi không thể rời mắt khỏi bọn Wraith trong khi chúng bay đi, hạ cánh gần đầu đoàn xe của chúng tôi.
Chỉ khi đó đôi mắt đẫm lệ của tôi mới quay lại nhìn Jarrod.
Anh ấy đang nhìn tôi chằm chằm vô hồn. Run rẩy, tôi vuốt mi mắt anh đóng lại. Tôi chợt nhận ra rằng, dù xung quanh có rất nhiều người nhưng tôi hoàn toàn cô đơn. Tôi có biết một số thám hiểm giả đã bảo vệ cho bọn tôi ban nãy, nhưng họ không phải là bạn tôi và hầu hết họ đã chết trong đợt tấn công đầu tiên. Những người mà chúng tôi đang giúp di tản gần như đều là những người xa lạ đối với tôi, nhiều lắm thì cũng chỉ là những người tôi đã tìm thấy và giúp trốn thoát khỏi thành phố Xyrus. Ba và Mẹ thì ở cách đây rất xa. Cô Vanesy đã giúp tổ chức cuộc hành trình này, nhưng không cần cô ấy phải đích thân tham dự…
Tôi chỉ còn một mình và tôi không biết phải làm gì tiếp theo.
Bụng tôi quặn thắt khi dấu hiệu mana của một thằng Wraith tiến lại gần, khí tức của chúng quất vào tôi như một ngọn roi. Tên Wraith một tay kia lại bay tà tà về phía bọn tôi lần nữa. Trên khuôn mặt bị bỏng của hắn hiện lên một nụ cười nhếch mép đáng sợ. “Perhata đã nói thế phải không? Niệm một phép, thì chết. Đồ ngốc. Tất cả những gì mày cần làm là ngồi yên, câm mồm và tránh đường cho bọn tao.”
(Nguyên văn: “and stay out of our way.” Câu này có thể hiểu thành hai nghĩa. Một như mình dịch ở trên, còn nghĩa hai là nghĩa bóng, dựa theo tình huống khi Jarrod chết, dịch là: “và tránh xa khỏi chuyện của bọn tao”)
Tôi không còn sức để nói qua lại với tên ác quỷ này sau cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình, nhưng dù sao đi nữa thì hắn cũng chẳng nghe. Đầu hắn ngẩng vội lên, cái mũi phồng rộp kỳ dị khụt khịt ngửi trong không khí như một con thú vật. Một tiếng gầm gừ nhỏ giọng phát ra từ cổ họng hắn, và hắn trừng mắt nhìn tôi đầy ác ý. “Im lặng. Không nói gì cả, nếu không bọn tao giết ngay.”
Sau đó, tôi cảm thấy sự hiện diện của bọn Wraith biến mất, từng tên một. Ngay cả khi tôi đang nhìn chằm chằm vào tên Raest, tôi đã mất hết nhận thức về dấu hiệu mana ngột ngạt của hắn. Chỉ trong chốc lát, giống như bọn Wraith đã biến mất.
Tay tôi tự mò mẫm một cách mù quáng cho đến khi chụp lấy cánh tay vốn đã nguội lạnh của Jarrod. Cái quái gì đang diễn ra vậy?
Một sự bùng phát dấu hiệu mana từ xa nhưng đang nhanh chóng tiến lại gần đây đã trả lời cho câu tôi tự hỏi ngay khi vừa mới nghĩ đến nó.
Từ chỗ đang quỳ cạnh xác Jarrod, tôi xoay người lại, nhìn chằm chằm lên bầu trời mà chẳng hiểu gì, nơi ba hình dáng khổng lồ có cánh đã xuất hiện trên những ngọn núi và đang bay thẳng về phía chúng tôi.
Rồng! Ba con rồng!
Khó thở, tôi nhìn ngắm chúng với vẻ đói khát: hai sinh vật xinh đẹp trắng như pha lê với đôi cánh có màng gân dạng lưới nhện màu xanh băng và những cái gai lấp lánh dọc lưng, dẫn đầu bởi một con thứ ba, đen ngòm bầu trời như lúc nửa đêm và sôi sục sát khí không giống bất kỳ ai mà tôi từng cảm thấy trước đây.
Tôi ngẫm nghĩ liếc nhìn tên Raest từ khóe mắt khi những con rồng bay chậm lại, đảo vòng về phía tây và điều tra đoàn xe lữ hành của chúng tôi. Hắn không nhìn tôi mà ngồi xổm xuống cạnh một chiếc xe kéo, đôi mắt đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào những con rồng.
Không, tôi nghĩ, đột nhiên tuyệt vọng, các ngón tay trắng bệch ôm quanh xác chết của Jarrod. Họ sẽ nghĩ chúng ta chỉ là…chúng ta thôi, họ sẽ không biết bọn Wraith đang ở đây, họ sẽ rời đi!
Tôi nuốt nước bọt với vẻ nặng nề, chuẩn bị tinh thần cho những gì mình cần làm. Bọn Wraith sẽ giết tôi, tôi nhìn thấy chuyện đó rõ như nhìn thấy những con rồng đang bay trên trời, nhưng tôi đã chết kể từ thời điểm bọn Wraith bắn hạ Tanner và con cánh đao của anh ấy…
Hít một hơi thật sâu, tôi chuẩn bị niệm phép.
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
-
1.
⤴︎
Ảnh Lilia Helstea được vẽ trong manhwa: -
2.
⤴︎
Ảnh Jarrod Redner được vẽ trong manhwa: -
3.
⤴︎
Ảnh Diane Whitehall được vẽ trong manhwa: - 4. Tóm tắt: Nữ phụ lâu năm không gặp Lilia Helstea đi thồ người cùng các nhân vật siêu phụ khác đang cần được chết.
- 5. Rất nhiều nhân vật phụ từ cái thời xa lơ xa lắc bắt đầu xuất hiện lại, chứng tỏ tác giả không quên, ai cũng có vai và … có chỗ để chết cả.
- 6. Chắc các bạn chưa quên tên chương này đâu nhỉ, tên chương này chính là tên cuốn phụ tập 8.5 mà tác giả từng đăng bao gồm 40 chương nhỏ bên trong. Tên chương này đúng nghĩa đen của nó, đám này gặp Wraith thì… thành bại binh thật.
- 7. Thật ra đám này chết cũng có một phần lỗi của tụi nó, khi thấy một kẻ thù mạnh hơn mình đến mức độ áp đảo mà lại chủ động tấn công trước thì chả khác nào tự đẩy mình vào chỗ chết, thà cứ để từ từ xem tình hình thế nào thì khôn ngoan hơn là chủ động tấn công trước. Tóm lại vì nỗi sợ lấn át lý trí nên vung tay đánh.
- 8. Ver.1: Oct-29th-2023; ver.2: Dec-16th;