Chương 418

Tàn tích thứ Ba

Tên gốc: "Chapter 416: The Third Ruin"


  • GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN

    Cả vùng rung chuyển khi người bảo vệ to khổng lồ của vùng này đổ sụp xuống, ngực nó bị xuyên thủng bởi các mũi tên bằng mana trong mờ và đầy những mảnh đá nhọn, tiếng gầm đáng thương lần cuối của nó nghẹn lại bởi một dòng máu đen trào ra.

    Chị Mica, trên người lấm lem bùn đất và mồ hôi nhễ nhại, dùng mũi giày huých vào thân của kẻ bảo vệ to khổng lồ, khiến cái xác phủ đầy lông đồ sộ này khẽ rung chuyển. Cặp mắt đen nhỏ xíu của nó ở trên cái mõm như lợn với cặp ngà hai bên đang nhìn chằm chằm vô hồn xuyên thấu người tôi.

    “Và thêm… một con nữa… tạch,” Mica nói, ngồi phịch xuống cánh tay to lớn của con thú như thể nó là cái ghế đi-văng xù xì.

    Lượng aether trong bầu không khí của khu vực này rung động, và tôi lướt mắt nhìn quanh chỗ chúng tôi đứng.

    Chúng tôi đang đứng trên đỉnh một cây cột đá đổ nát và khô cứng. Cả bọn đã phải vượt qua từng cột một, chiến đấu với nhiều loại quái vật khác nhau ngày càng tăng về kích cỡ lẫn sức mạnh, để đến được trận cuối là chỗ cây cột này. Mặt đất bên dưới cao cách cây cột cuối cả dặm là một vùng đất hoang bằng đá sa thạch rất khó nhìn rõ, cao đến mức chân các cây cột trong tầm nhìn của tôi đều mờ đi trước khi chạm đáy. Với các cây cột mờ dần đi trong lớp sương mù sinh ra từ nhiệt trong không khí, vùng này dường như trải rộng ra mãi khắp mọi hướng và tiếp giáp bầu trời màu xanh dịu ở đường chân trời.

    Boo rên ư ư, và tôi liếc về phía cậu ta. Bé Ellie đang đứng bên cạnh cậu ấy và vỗ vỗ nhẹ an ủi.

    Regis cười khúc khích: “Ai đoán được rằng một con mãnh thú lai chủng asura chuyên đi hộ vệ lại sợ độ cao như thế?”

    Cơn rung động lại xảy ra lần nữa.

    Ellie bắt đầu ném cho Regis một ánh nhìn khó chịu, nhưng con bé ngừng lại khi nhìn thấy khuôn mặt tôi. “Anh ơi, có chuyện gì vậy?”

    “Anh không—”

    Đá dưới chân tôi nứt ra. Cặp mắt của mọi người đổ dồn vào vết nứt, ban đầu chỉ dài có vài feet, nhưng ngay lúc chúng tôi đang quan sát đây thì nó bắt đầu nứt vội thật nhanh trên bề mặt sần sùi ở đỉnh cột chỗ cả bọn đang đứng. Boo và bé Ellie nhảy sang một bên khi vết nứt gần như chia đôi bề mặt đứng của cây cột. Sau đó, tiếng đá bị nghiền rung như thể lan tận xương tủy tôi vang lên, rồi hàng chục vết nứt khác tách nhánh ra từ vết nứt ở tâm, và đất đá dưới chân bọn tôi bắt đầu xê dịch.

    Toàn bộ khu vực bao quanh chúng tôi bùng nổ kèm tiếng đá vỡ vụn nghe lộn xộn như tuyết lở, và mây bụi dày đặc trong không khí.

    Cổng dịch chuyển (portal) thoát khỏi vùng này vốn được lắp dính vào mặt sàn của cột đá và được canh giữ bởi con quái vật khổng lồ khi nãy, nay bừng sáng và mở đường cho chúng tôi đến vùng kế tiếp.

    Ả Lyra chạy nước rút tới chỗ cánh cổng, chân cô ta gần như không chạm tới mặt sàn đang đổ nát.

    Tôi hét lên: “Đừng qua cổng vội!” và cô ta chúi mũi chân lướt về phía trước để hãm đà chạy và dừng lại ngay trước khung cổng dịch chuyển hình vuông. “Hãy cố làm cho nền sàn dưới chân ổn định lại đã!”

    Trong khi chị Mica và ả Lyra vội làm theo lệnh của tôi, tôi vội nhấc Ellie lên và nhảy một cú có độ dài cỡ phân nửa chiều rộng mặt sàn cây cột đá này để đáp xuống chỗ cánh cổng với cổ vật La Bàn (Compass) lăm lăm sẵn trên tay.

    Đặt Ellie xuống, tôi truyền dẫn aether vào La Bàn và tập trung vào cánh cổng dịch chuyển. Nếu bản đồ được bà Sylvia gửi cho trong tâm trí tôi là chính xác, thì tàn tích thứ ba của djinn nằm ở ngay lần dịch chuyển kế tiếp này, nhưng vì chúng tôi không có thiết bị simulet chia cho cả đội, thế nên trừ khi tôi ổn định điểm đến của cánh cổng trước, còn không thì những người khác có thể sẽ không dịch chuyển về chung một nơi với tôi.

    (Người dịch: nhắc lại cho bạn nào quên, simulet là cái cục chia cho mấy người trong cùng một tổ đội cầm để khi qua cổng portal tránh bị tách đội)

    Chị Mica nhảy đến chỗ tâm vết nứt trên mặt sàn và đập cây búa xuống. Thay vì làm cả cây cột đá này vỡ tung, phép thuật chạy từ chiếc búa dọc theo các vết nứt lan rộng, kéo đất đá dính lại với nhau. Ả Lyra thì chạy nước rút xung quanh mặt rìa ngoài cột, tạo một luồng gió ma thuật thổi ra từ sau lưng rồi thổi xuống quanh mép cột để ổn định sàn đứng bằng cách thổi một chuỗi khí thật mạnh vào thành ngoài cột đá nhằm gia cố cho cấu trúc cột thêm vững chãi.

    Chị Mica hét lên, giọng nói có chút hoảng loạn: “Giống như có thứ gì khác đang kiểm soát mana vậy!”

    “Cảnh quan của Khu Tàn Tích (Relictombs) là bất biến,” ả Lyra vừa chạy vừa thở hổn hển. “Họ đã xây dựng nơi này bằng aether, và tạo vật của họ chống lại cả những pháp sư mạnh nhất cố tác động làm thay đổi cảnh quan…”

    Dành chút xíu chú ý còn lại của mình ngoài sự tập trung mà tôi đã dồn vào cổ vật La Bàn và cổng dịch chuyển để suy nghĩ những lời ả Lyra nói, tôi nhận ra rằng mình chưa bao giờ suy xét về thực tế đó trước đây. Tôi đã mất lõi mana của mình trước khi vào Khu Tàn Tích, và bởi vậy tôi luôn dựa vào aether để sống sót ở đây. Mặc dù nghe có vẻ hợp lý khi nghĩ rằng người djinn sẽ có chủ ý ngăn cản những kẻ bị thử thách bên trong nơi này chỉ đơn giản dùng mana chỉnh sửa lại các vùng đất, nhưng điều đó cũng gợi ý cho ta rằng nếu sử dụng aether đúng cách thì có thể sửa lại cấu tạo của chính Khu Tàn Tích này.

    Tuy nhiên, ngay bây giờ thì chẳng có thời gian cho những cân nhắc như vậy. Từ rìa ngoại vi tầm nhìn của mình, tôi thấy chị Mica bắt đầu run rẩy, bắp tay chị phồng lên khi chị ta dùng hết sức giữ chặt cây búa. Tảng đá dưới chân ả Lyra đã sụp đổ, và nó rơi mất hút xuống cái hố bên dưới. Từ nơi nào đó đằng dưới, tôi cảm thấy chiếc cột cao hàng dặm đang dịch chuyển và xoắn lại, tiếng ồn từ cây cột đá này chìm nghỉm trong tiếng tạp âm của những tảng đá đang rơi ầm ầm ở khắp mọi hướng.

    (Nguyên văn: “The stone beneath Lyra’s feet collapsed, and she vanished into the hole.” Câu này hình như tác giả đánh máy sai, từ “she” lẽ ra phải là từ “it”? Vì như đoạn dưới Lyra vẫn còn đứng kế Art)

    Cây cột chúng tôi đang đứng vỡ tan tành.

    Tôi và ả Lyra đang đứng ở cạnh rìa khung cổng dịch chuyển, thứ chẳng mảy may xê dịch. Bé Ellie đang đứng ngay cạnh tôi, nhưng một chân bị hụt khỏi khung cổng. Khi nền sàn vỡ vụn, mắt con bé mở trố ra và với tay lấy tôi khi con bé bị trọng lực kéo tụt xuống.

    Đằng sau con bé, cả ba người Boo, Regis và chị Mica đều rơi xuống cùng đống xà bần, con gấu hộ vệ này phát ra tiếng gầm tuyệt vọng khi móng nó khua loạn xạ để cố bấu vào đất đá vốn không chịu nổi sức nặng của nó nữa.

    Tôi xém đánh rơi cổ vật La Bàn khi vội với tay ra chụp bé Ellie. Các ngón tay tôi cà lướt qua mấy ngón tay con bé, nhưng vì tôi đã quá tập trung vào việc ổn định tọa độ điểm đến của cổng dịch chuyển…

    Tóc con bé bay qua mặt nó, tung bay trong gió như một lá cờ, hai tay nó cào vào không trung như thể làm cách nào đó con bé nắm được không khí hay bám víu được vào đâu đó. Một tiếng hét muộn màng sau đó vang lên xuyên qua không trung, van lơn và bất lực.

    Chửi thề một tiếng, tôi nhảy qua một bên và bám theo sau con bé rồi kích hoạt chiêu God Step.

    Những đường chạy aether lướt chớp qua với tốc độ khó xử lý nổi, đặc biệt là khi tim tôi đang co thắt lại. Hướng mắt về Ellie, tôi dùng hết mọi giác quan còn lại của mình tập trung vào các đường chạy.

    Tôi hướng cơ thể mình về phía con bé và cố gắng tạo ra tư thế rơi có tính khí động học nhất mà mình làm được, tôi tăng tốc đuổi theo con bé. Quãng thời gian trôi qua cảm tưởng như rất dài. Cơ thể con nhóc quay mòng mòng khi đang rơi tự do, rồi lúc tôi bắt kịp và vòng tay ôm lấy con bé, lực chụp đủ mạnh để đẩy không khí khỏi phổi con bé. Nó quờ quạo để giữ lấy người tôi bằng mọi cách có thể, kéo tóc tôi lẫn ấn ngón cái vào mắt tôi. Cả hai đứa tôi bắt đầu lộn vòng giữa không trung từ đầu đến cuối, túm chặt lấy nhau bởi những ngón tay con bé bấu chặt người tôi và cánh tay tôi quấn quanh eo con bé.

    “El…Ellie! Em phải”—mấy ngón tay tôi rốt cuộc cũng nắm quanh được cổ tay con nhóc, và tôi kéo con bé mặt đối mặt với tôi—“bình tĩnh lại!”

    Con bé dí sát lại người tôi hơn và ôm tôi thật chặt rồi hét lên, “Boo ơi!”

    Cách chúng tôi khoảng hai mươi feet về bên phải, cơ thể khổng lồ của con gấu hộ vệ kia đang quay lộn vòng từ đầu đến cuối. Một tiếng gầm dài và trầm xen lẫn sự thất thần phát ra, và nó đang run lẩy bẩy.

    Regis ở gần hơn, gần như bay thẳng về phía trước. Cậu ta làm một kiểu xoay tròn người và quay sang nhìn tôi, lưỡi thè dài ra ngoài cho nó tự trôi một bên hàm. ‘Tôi luôn nghĩ mình thích chơi bay lướt thế này’, cậu ta chuyển ý nghĩ cho tôi. ‘Và né tránh hàng triệu tấn đá chết người đang rơi chắc chắn làm tăng thêm trải nghiệm đấy.’ Hình dạng sói bóng tối của cậu ta tan biến, chỉ để lại hình hài một con tinh linh wisp nhỏ, bắt đầu trôi ngược lên trên hướng về phía khung cổng dịch chuyển.

    (Nguyên văn: “I always thought I’d like skydiving”. Trong tiếng Việt dịch chữ ‘skydiving’ thành ‘môn nhảy dù’ nhưng từ đó không chính xác, ‘skydiving’ là bộ môn thể thao ‘nhảy khỏi máy bay sau đó làm các động tác bay lướt giữa không trung theo nhiều tư thế tùy thích, chứ đây không phải môn nhảy dù’, trên thực tế, không có môn thể thao nào tên ‘nhảy dù’ hết)

    Bé Ellie hét vào tai tôi: “Chúng ta cần cứu Boo!”

    Tôi hét trả lại trong tiếng gió. “Em sẽ phải triệu hồi cậu ta đang rơi ở tuốt phía trên,”

    Lông mày Ellie nhíu lại thể hiện sự quyết tâm khi con bé gật đầu mặc cho những giọt nước mắt bị gió thổi lăn dài trên má.

    Tôi tập trung trở lại các đường chạy trong vùng không gian aether, tìm kiếm một đường đưa chúng tôi trở lại chỗ khung cổng dịch chuyển hiện giờ đang ở tuốt trên cao, nhưng rồi bé Ellie lại siết chặt lấy tôi lần nữa. Để ý thấy ánh mắt kinh hoàng của con bé, tôi nhìn theo.

    Chị Mica ở phía trên chúng tôi gần cả trăm feet, các đường dẫn trong vùng không gian của aether di chuyển và mờ dần đi khi vị trí tương đối giữa chị ấy và chúng tôi thay đổi liên tục. Tôi chửi thề, loay hoay tính toán xem làm thế nào để chụp chị ta rồi dịch chuyển lại chỗ khung cổng kịp lúc.

    “Anh ơi, giữ chặt em!”

    Ellie giơ một bàn tay tỏa sáng khi con bé nắm chặt lấy áo choàng của tôi, ổn định bản thân khi con bé đang nhắm tới chỗ chị lance kia. Một tia trắng sáng lờ mờ bắn ra, suýt chút nữa chạm phải một tảng đá rơi sượt qua trước khi tìm thấy mục tiêu của nó.

    Với một lượng mana truyền vào đột ngột, chị Mica đã ngừng rơi. Chị ta nhìn xuống chỗ chúng tôi đang rơi và tỏ vẻ lưỡng lự, nhưng tôi lắc đầu. Chị gật đầu hiểu ý và bay thẳng lên không trung.

    Tôi dành một giây để quan sát mặt đất đang nhanh chóng tiến lại gần chúng tôi hơn, rồi cố dồn hết sự tập trung vào các đường dẫn aether. Khi chúng không hợp nhất lại ngay tức khắc trong tâm trí tôi, tôi đã nhắm mắt lại, cảm nhận chúng theo cách mà bà Three Steps (Tam Bộ) đã dạy tôi.

    Ở kia.

    Ôm Ellie vững chãi trong vòng tay, tôi “bước” vào vùng không gian aether. Chúng tôi xuất hiện trên mép đá mỏng bao quanh cánh cổng dịch chuyển đang phát sáng.

    “Boo ơi!” Ellie hét lên, giọng chát chúa.

    Với một tiếng pop nhỏ nhẹ, một cái bóng xuất hiện trên đầu, và con gấu hộ vệ khổng lồ đổ ập xuống người tôi.

    Nằm dưới viền lông con gấu, tôi thấy đôi giày ống của chị Mica đáp xuống cạnh chúng tôi.

    “Boo ơi!” Ellie kêu lên, tiếng thút thít của con bé nghe như nghẹt lại vì con bé hẳn đã úp mặt vào bên hông con thú khế ước của mình.

    Cẩn thận để không làm con quái mana này rơi khỏi mép sàn lần nữa, tôi nhấc thân ra khỏi cơ thể đồ sộ của nó và len người ra. Regis trôi tà tà vào người tôi, ngân nga một giai điệu nào đó, không buồn để ý đến chuyện mọi người vừa xém chết.

    Cả lũ chúng tôi đều nhìn nhau, nhưng chẳng ai nói gì.

    Thêm lần nữa, tôi rút cái cổ vật La Bàn ra và bắt đầu ổn định cánh cổng để nó không tự đẩy từng người đi đến các vùng khác nhau. Tôi gật đầu khi mọi thứ đã sẵn sàng, và ả Lyra bước vào bề mặt cổng dịch chuyển, trông như thể cô ta đang chìm người vào một vũng thủy ngân sóng sánh. Chị Mica vươn tay đặt nhẹ lên vai Ellie. Cả hai đều nhìn nhau và cùng nở một nụ cười nhạt, rồi chị Mica theo sau ả Lyra nhảy vào.

    Bé Ellie ngập ngừng: “Em xin lỗi,” một lúc sau con bé nói tiếp: “Lẽ ra em nên—”

    Tôi giơ tay lên ngăn con bé xin lỗi tiếp: “Đừng cảm giác rằng em phải xin lỗi về mọi chuyện chứ.”

    Liếc qua mép rìa sàn đang đứng, một cơn rùng mình chạy dọc người con bé và nó gật đầu. Boo không cần phải khích lệ để lội vào cổng dịch chuyển, và Ellie theo sau với vẻ quyết tâm dữ dội.

    Tôi nhìn quanh vùng này lần cuối, nhìn sự tan hoang chỗ này với một tiếng thở dài, rồi bước vào cánh cổng.

    Ở mặt bên kia cổng, chúng tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang quen thuộc, được chiếu sáng bởi cả dãy đèn chạy dọc theo nóc các bức tường. Chị Mica, ả Lyra, bé Ellie và nhóc Boo đang nhìn chằm chằm xung quanh. Cảm nhận thấy một cảm giác ‘thấy đâu đó rồi quen lắm nhưng mà quên’, tôi quay lại nhìn cánh cổng mà chúng tôi vừa bước vào đang biến mất.

    (Nguyên văn: “Feeling a sense of deja vu,” Cụm từ ‘deja vu’ nghĩa là ‘cảm thấy hình ảnh trước mặt rất quen đã thấy ở đâu đó rồi dù thực ra chưa từng thấy bao giờ’)

    “Chà, chỗ này rùng rợn sao ấy,” Regis nói khi bước ra khỏi cái bóng của tôi. Tôi lắc đầu, chợt nhận ra rằng cậu ta đã nói y chang câu này khi chúng tôi tìm thấy tàn tích đầu tiên.

    Trước đây, cái môi trường vô trùng kiểu phòng thí nghiệm này từng khiến tôi lo lắng, nhưng giờ tôi đã biết điều gì sẽ xảy ra. Hẳn rồi, một lúc sau, các cổ tự (rune) sáng lên dọc theo các bức tường, và ánh đèn mờ dần thành một màu tím nhạt.

    Lại lần nữa, một lực không thể kháng cự lại đã bao trùm tôi—à tất cả chúng tôi—và đột nhiên nhóm của chúng tôi trượt đi trên sàn nhà lát gạch, lôi chúng tôi đến một cánh cổng khổng lồ bằng pha lê đen.

    Ả Lyra văng tục, quay ngó xung quanh, nhưng dãy hành lang trắng đã biến mất. “Có chuyện gì vậy?”

    “Không sao đâu,” tôi đảm bảo với cô ta. “Ở mặt sau cánh cổng kia, chúng ta sẽ thấy thứ mà chúng ta đang tìm. Tôi sẽ đối mặt với một loại bài kiểm tra hoặc thử thách nào đó. Mọi người sẽ không thể giúp tôi, vậy nên mọi người sẽ có cơ hội nghỉ ngơi ở đó.

    Chị Mica hỏi: “Ai cần…nghỉ ngơi…” dựa người vào hông Boo để giữ thân đứng thẳng lên.

    ‘Chào mừng, hậu duệ. Xin mời vào.’

    (Người dịch: đọc đến tận chương này chắc các bạn đã để ý rồi, những đoạn hội thoại bỏ trong dấu ngoặc kép một ngoặc như này: ‘ ’ là những đoạn truyền trong tâm trí Art, điển hình là hội thoại của Regis)

    Ellie hỏi: “Đó là gì vậy?”

    “Em có nghe thấy những lời đó không?” Tôi hỏi khi những chữ cổ tự trên mặt cổng rung lên theo từng nhịp sáng.

    “Đó không phải lời, chỉ là…thứ gì đó. Giống như lời thì thầm vượt khỏi ngưỡng nghe của em.”

    Tôi cau mày và suy xét. Thật hợp lý nếu Ellie cũng nghe được tin nhắn, vì con bé cũng là hậu duệ của người djinn, nhưng con bé không có bất kỳ sự thấu biết sâu sắc (insight) nào về aether, vậy nên có lẽ là Khu Tàn Tích đã nhìn nhận con bé theo cách khác.

    Tốt hơn là cậu vào trong người tôi, để đề phòng thôi, tôi gợi ý với Regis. Tôi không muốn cậu bị kẹt lại ở mặt bên này cánh cửa đâu.

    Cậu ta hóa về dạng vô thể và bay lững lờ vào cơ thể tôi, hình dạng tinh linh wisp của cậu ta trú lại gần lõi tôi. ‘Đánh thức tôi dậy khi có gì đó thú vị xảy ra nhé.’

    Tôi nói: “Đoạn đi tiếp theo có thể đem lại hiệu ứng ảo giác hơi ngáo ngơ một chút,” và đưa tay ra rồi lướt các ngón trên bề mặt cổng nhẵn nhụi.

    Nơi nào các ngón tay tôi lướt qua, thì chỗ pha lê đấy kêu leng keng nhẹ khi nó trượt khỏi các ngón tay tôi, mở đường cho tôi đi vào. Hít một hơi thật sâu, tôi bước chân vào nền sàn cứng, da tôi râm ran vì cảm giác vuốt ve kỳ lạ nhưng đầy ấm áp của lớp pha lê đen trên bề mặt cổng phủ qua quanh da tôi.

    Mọi thứ chìm vào bóng tối trong giây lát, và tôi có cảm giác như mình đang đi dưới đáy một đại dương ấm áp, rồi lớp màn pha lê lại chia tách ra. Lần này, khi nhìn thấy các họa tiết hình học (geometric pattern) kia, tôi nhận ra chúng giống với những họa tiết tôi đã thấy trong cục keystone (trọng khóa) khi tôi học chiêu Aroa’s Requiem (Lời cầu hồn của Aroa). Có điều gì đó giống nhau giữa thứ phép thuật trong cục keystone đó và thứ phép thuật ở đây, mặc dù còn lâu tôi mới hiểu được chúng chính xác là thứ gì.

    Tôi không nghĩ rằng sẽ có nguy hiểm, nhưng tôi vẫn nhanh chóng lướt mắt khắp khoảng không xung quanh sau khi bước qua cánh cửa pha lê.

    Nơi này được thắp sáng rực rỡ bởi một lượng lớn các đồ tạo tác chiếu sáng (lightning artifact) tỏa sáng như ánh mặt trời. Những kệ trưng bày bằng kính xếp thành hàng trong phòng, và giữa phòng chứa hơn chục chiếc bàn thấp được phủ khung kính lên.

    Bước đến chỗ trưng bày ở gần nhất, tôi tìm kiếm một tấm biển giới thiệu hay bảng tên giúp giải thích những gì tôi đang thấy, nhưng những thứ được trưng ở đây chẳng có dán nhãn gì cả. Bên trong khung kính, thứ nằm trên một tấm đệm nhung màu tím là một khối lập phương chẳng có gì đặc sắc.

    Bầu không khí sau lưng tôi thay đổi, và lớp pha lê đen trên bề mặt cổng vào nổi gợn lên trông sống động đủ lâu tới khi ả Lyra Dreide bước qua phòng, rồi gợn sóng ở mặt cổng lại tan đi.

    Cô ta mở to mắt nhìn quanh, miệng há hốc. “Chỗ này là…một loại bảo tàng nào đó à?”

    Tôi chậm rãi bước vào chỗ lối đi giữa hai dãy bàn trưng bày, xem xét các món đồ tạo tác. “Ừa, đại loại thế. Chỗ này khác với những gì tôi đã thấy trước đây. Và tôi không nhận ra bất kỳ món vật tạo tác nào trong số này.”

    Tiếng leng keng nho nhỏ từ cánh cửa pha lê lại vang lên, và lần này bé Ellie bước qua, theo ngay sau là Boo. “Quoa, chỗ này tuyệt thật,” con bé lẩm bẩm, nhún chân nhảy rất phấn khích.

    Cơ thể đồ sộ của Boo lớn đến mức cậu ta không thể di chuyển mà không va quẹt thứ gì đó, nhưng các vật trưng bày dường như được cố định tại chỗ, không xê dịch gì ngay cả khi con gấu hộ vệ cọ người phải chúng.

    Chị Mica đến sau vài giây. Sau khi nhìn quanh một hồi, chị ta nhún vai. “Vậy là cái trò kiểm tra quy mô này diễn ra trong một viện bảo tàng cũ kĩ bụi bặm à? Không phải vậy hơi kỳ sao? Tôi nghĩ nó thật kỳ cục.”

    Tôi không đáp lời, cuối cùng cũng thấy một thứ mà tôi nhận ra. Trên bức tường đối diện với cổng bằng pha lê mà tôi bước vào, một trong mấy cái kệ đặt ba quả cầu giống hệt nhau. Nhiều cổ vật La Bàn hơn, tôi đã để ý và lần các ngón tay dọc theo mép tiếp xúc của khung kính với bàn trưng bày. Thật cẩn thận, tôi cố xê dịch khung kính hay mở nó ra, nhưng nó chẳng nhúc nhích gì với một lực nhỏ như thế.

    “Tôi cũng không thấy có cách nào để mở chúng cả,” ả Lyra nhận xét khi cô ta lướt tay dọc theo cạnh dưới của một cái bàn trưng bày. “Chúng ta có thể đập vỡ chúng. Những đồ vật trong bảo tàng này—”

    Nắm tay lại, tôi đập mạnh xuống mặt trên khung kính với một lực đủ để vỡ toạc cả thép. Khung kính trưng bày không kháng lại lực đập mà cũng không vỡ tan ra. Thay vào đó, nắm tay tôi xuyên qua nó luôn, hình ảnh bồng bềnh lắc lư không đồng nhất cho đến khi tôi rút tay lại. Khi khung kính đã ổn định trở lại, tôi ấn ngón trỏ vào nó. Cảm thấy nó vẫn cứng như trước.

    Khi tôi và Caera đến tàn tích thứ hai của người djinn, nơi đó đã sụp đổ. Sảnh vào và thư viện ở phía bên kia cổng nhập chung vào nhau. Chúng không hẳn là thật. Cái bảo tàng này có lẽ cũng vậy, một kiểu hiển thị trực quan sinh động của một nơi không tồn tại.

    “Nó giống như…” Tôi ngừng lại, cố nghĩ ra một lối nói ẩn dụ phù hợp cho hiện tượng này.

    “Giống như một bức tranh được hóa thành thật,” bé Ellie nói, tò mò nhìn chằm chằm vào một cây gậy được chạm trổ từ kim loại xỉn màu, dài khoảng một gang tay rưỡi.

    “Ừa, đại loại thế. Ngay cả các vùng trong Khu Tàn Tích mà chúng ta đã dọn sạch đều sẽ hồi phục lại toàn bộ sau khi ta rời đi. Rõ là chúng bị điều khiển để kiểm tra chúng ta. Còn căn phòng này thực sự chẳng có gì. Đây chỉ là chỗ tiêu khiển thôi.”

    Ả Lyra nói: “Vậy thì nó hẳn là tiêu khiển rất tốt rồi,” giọng đầy chất ngạc nhiên xen lẫn thán phục khi cô ta dí sát mặt vào một trong món trưng bày trong khung kính.

    Tôi vươn cổ ngó qua để xem cô ta đang nhìn gì và chợt giật mình nhận ra một mớ khối cầu pha lê nhiều gương mặt đang nằm trên đệm nhung. Những hình ảnh—à những gương mặt của người djinn—được chiếu ra khắp các bề mặt của khối lập phương với biểu cảm kiên định nhưng tuyệt vọng. Truyền aether vào ấn không gian lưu trữ đa chiều của mình, tôi rút ra một khối pha lê y chang mà tôi đã lấy từ tàn tích thứ hai rồi sau đó quên mất.

    Khi khối pha lê xuất hiện trong tay tôi, ả Lyra lập tức với tay ra định sờ nó, nhưng rồi tự kiềm chế lại và từ từ hạ tay xuống. Đôi mắt cô ả đảo ngược trở lại bộ sưu tập các khối pha lê của người djinn được bảo vệ bên dưới khung kính, sự bối rối của cô ta lộ ra rõ ràng.

    “Những thứ này kiểu như là sách báo. Hoặc các tạp chí,” tôi nói để trả lời câu hỏi không thành tiếng của cô ta. “Hoặc ít ra, đó là ấn tượng mà tôi có trước đây về chúng. Tôi đã mang cái này bên mình đi khắp nơi cũng được một khoảng thời gian rồi.”

    “Vậy nó nói gì ạ?” cô ả hỏi với giọng gần như tôn kính.

    “Tôi…không chắc,” tôi thừa nhận. “Tôi chưa bao giờ nghe được thông điệp từ người tạo ra nó.”

    Bé Ellie đến gần, dựa vào tôi để nhìn rõ hơn. “Vậy là anh đã bỏ bí mật về phép thuật cổ xưa vào túi và đi loanh quanh khắp nơi mà thậm chí còn không nhận ra điều đó sao?” Cặp lông mày của con bé nhướng lên và nó lắc đầu với tôi.

    “Anh e là vậy,” tôi nói thế nhưng những lời của bé Ellie khiến tôi thấy bức rức.

    Tôi đã lấy khối pha lê này từ một cái thư viện sắp sụp đổ, khu vực bị chồng lặp lên khu phế tích thứ hai, ít nhiều gì thì cũng chỉ là sở thích thoáng qua, và khi đó tôi cảm thấy chút tội lỗi về hành động này. Mặc dù sau đó, tôi hoàn toàn chú tâm vào cục keystone và chẳng nghĩ ngợi gì đến khối cầu pha lê này nữa.

    “Ngài có thể kích hoạt nó lên để tất cả chúng ta có thể trải nghiệm nó không?” ả Lyra hỏi. “Tôi chưa bao giờ nghe nói về một kho kiến ​​thức của pháp sư cổ đại như vậy cả, và tôi cực kỳ muốn nghe những gì người đàn ông này nói.” Cô ấy chỉ vào khuôn mặt đang mở miệng nói nhưng không thành tiếng xuất hiện ở khắp các mặt của khối pha lê.

    Tôi xoay khối pha lê trên tay, xem xét nó, rồi gửi nó trở vào ấn không gian của mình. Ả Lyra trông có vẻ khó chịu khi nhìn chằm chằm vào bàn tay trống không của tôi, nhưng tôi lờ cô ta đi. Có gì đó không đúng cho lắm. Trước đây, dù là khi ở trong cái thư viện sắp sập ở tàn tích thứ hai, thì tôi cũng chỉ dùng aether để truy cập vào các góc phế tích ẩn dưới bề mặt khu vực. Nhưng mà hiện giờ tôi dùng aether để truy cập kho lưu trữ đa chiều của mình những hai lần.

    Chị Mica nói gì đó, có lẽ đang hỏi, nhưng tôi chẳng để ý từ nào chị ta nói. Giơ tay lên, tôi truyền dẫn aether lên, tung ra một luồng năng lượng vô hại và không hình hài gì cả dưới dạng ánh sáng màu tím rực rỡ.

    Thêm lần nữa, chẳng có gì xảy ra cả.

    Cố tình hơn thế, tôi cúi xuống và đặt tay chạm mặt sàn, rồi đẩy một luồng aether ra. Vẫn chẳng thay đổi gì.

    Tôi gõ mấy ngón tay xuống sàn, và những lời ả Lyra nói lúc đứng trên đỉnh cột sắp đổ nát hiện lên trong đầu tôi. “Mình tự hỏi liệu…”

    Tôi truyền aether vào godrune (Thánh Ấn) Realmheart.

    Thật lạ làm sao. Năng lượng mana vẫn ở đây, nhưng thông thường các vi hạt mana sẽ hiện diện phù hợp với các thuộc tính vật lý ở chỗ không gian liên quan đến chúng. Ta thường nghĩ sẽ thấy mật độ mana thổ hệ dày đặc bám vào tường và sàn nhà, mana hệ khí trôi nổi trong không khí, và, trong một nơi như thế này, thì chỉ vươn vấn một chút vết của mana hỏa và thủy hệ thôi.

    Thế nhưng các vi hạt mana ở đây không hề khớp với các chỗ không gian mà ta đang thấy tý nào.

    Giống như tôi đang nhìn vào một hình ảnh thứ hai bị đặt chồng bên dưới hình ảnh mà mắt tôi đang thấy hiện giờ, một tập hợp những đốm sáng mana bị sắp xếp một cách lỏng lẻo tạo nên từ các đặc điểm của vùng không gian khác.

    Bởi vì lượng mana ở đây phù hợp với thực tại của căn phòng này. Các góc phế tích đổ nát, bục đỡ, vòng viền, giống như ở hai tàn tích trước kia thôi.

    Tôi cân nhắc lời ả Lyra nói thêm lần nữa. Một pháp sư dùng mana có thể vất vả thay đổi các đặc điểm vật lý của Khu Tàn Tích, nhưng phải có cách để tôi xuyên qua bức màn ngăn cách giữa bảo tàng và khu tàn tích ẩn ngay sau nó.

    Aether bắt đầu tỏa ra từ người tôi, lấp đầy căn phòng này một màu ánh tím. Trong tâm trí, tôi vươn đến những lằn may vô hình giữa hai khối vật chất, những nơi mà ảo ảnh được chứa đựng đối lập với thực tế. Nó giống như cảm nhận được rìa khe hở quanh một cánh cửa mật âm tường vậy—cảm giác được một nơi mà hai mảng vật chất riêng biệt không xếp khớp với nhau một cách hoàn hảo.

    Các ngón tay mà tôi tung ra lượng aether thăm dò chạm phải một cạnh rìa lởm chởm, và toàn bộ căn phòng chớp chao đảo và nhòe đi mất nét.

    Chị Mica rên rỉ, mắt cố nhìn theo. “Cảnh này làm tôi nhớ lại lần cố hạ gục Olfred trong một cuộc thi uống rượu, ực. Cậu đang cố làm cả lũ chúng ta ốm hết hay gì?”

    Tôi phải lần ngược trở lại chỗ phía trước đến hai lần trước khi tìm thấy cạnh rìa lần nữa. Ngay khi tôi chạm vào nó, sự mờ nhòe tĩnh lặng truyền rung động khắp gian phòng, khiến tôi lác cả mắt. Boo càu nhàu trong trạng thái bị kích động, và Ellie thủ thỉ khe khẽ để trấn an nó.

    Tôi nhắm mắt lại để các giác quan khác hoạt động, tôi dùng aether để cầm nắm cạnh rìa này. Tôi hình dung nó như mảnh giấy da phủ lên các giác quan của chúng ta, và đây cũng điều thích hợp nhất mà tôi có thể nghĩ ra. Tôi xé nó làm đôi.

    Các đồng đội của tôi bật ra những tiếng rên rỉ mất tinh thần, chúng nghe như thể chị Mica sắp phát bệnh khi tỏ vẻ khốn khổ. Có ai đó khuỵu xuống đất. Ả Lyra đang chửi thầm—hay cầu nguyện thần Vritra gì đó, thật khó để biết cô ta đang nói cái gì trong hai cái đấy.

    Khi tôi mở mắt ra lần nữa, bao quanh chúng tôi toàn là đá màu xám nhạt.

    Tôi nghĩ, đây là tàn tích thứ ba, và vẫn còn cảnh giác.

    Tuy nhiên, không giống như hai nơi trước, nơi này không phải là một đống phế tích đổ nát. Những bức tường và sàn nhà bằng đá trông như thể chúng vừa được khai thác khỏi mỏ và tạo hình mới ngày hôm qua. Chẳng có rong rêu mọc um tùm, chẳng có tường phòng nứt vỡ hay trần nhà đổ nát gì cả. Căn phòng này ở trong tình trạng hoàn hảo nhất của nó.

    Ngay cả cấu trúc ở tâm căn phòng cũng không bị hư hại, nhưng bốn cái vòng đáng lẽ quay quanh bệ thì nằm im lìm, và bản thân viên pha lê bên trên cái bệ thì tối đen.

    Chị Mica phàn nàn: “Thật là kinh khủng khiếp,”

    Bé Ellie đang quỳ trên mặt đất cạnh tôi, Boo rên rỉ và huých vào người con nhóc. Tôi đặt một tay lên tóc con bé, và bé ngước nhìn tôi. Mồ hôi đổ xuống mặt. Con bé yếu ớt nói: “Lần thứ hai trong ngày rồi đấy,”

    “Giống như… cặp mắt tôi bị móc ra khỏi hốc mắt rồi bị ném lên không trung trong khi mắt vẫn còn nối với đầu tôi vậy,” ả Lyra thở ra, dựa lưng vào bức tường đá mịn không tỳ vết.

    Regis hiện ra cạnh tôi, ngọn lửa của cậu ấy tỏa ra ánh tím nhấp nháy trên nhảy nhót trên phông nền đá của căn phòng này. “Lũ Vritra các người biết cách dùng từ phết đấy.” Đối với tôi, cậu ta nói: “Giờ sao hả sếp? Chỗ này nhìn chết lặng như đĩa thịt nướng vậy.”

    Tôi đặt lòng bàn tay mình lên viên pha lê. Nó lạnh ngắt và chẳng phản ứng gì khi tôi chạm vào.

    Chỉ giữ một phần tập trung vào chiêu Realmheart, tôi truyền dẫn thêm aether vào chiêu Aroa’s Requiem. Những bụi sáng từ nguồn năng lượng hồi phục chảy dọc xuống cánh tay và qua bàn tay tôi đi vào viên pha lê. Tôi đẩy càng lúc càng nhiều mẩu bụi sáng này vào thứ vật thể to lớn kia, quan sát khi mớ bụi sáng tràn ra khắp bề mặt ngoài, tụ tập lại ở mọi kẽ hở khi chúng tìm kiếm bất cứ thứ gì để sửa chữa.

    (Nguyên văn: “I pushed more and more motes into the large object”. Cụm từ ‘the large object’ là từ đồng nghĩa với ‘viên pha lê’ ở đằng trên, tác giả thay chữ cho khỏi lập từ)

    Một số bị hấp thụ vào viên pha lê, tan ra ngay trên bề mặt viên pha lê. Tôi nhớ lại sự hiểu biết của mình về món vật tạo tác kia, mục đích của nó là gì và những gì có thể được nó lưu trữ bên trong, những điều tồn tại trong ký ức của tôi dẫn lối cho cái godrune này một khuôn mẫu để có thể xây dựng lại viên pha lê nếu nó tìm thấy bất cứ chỗ nào bị hỏng hóc.

    (Nguyên văn: “I kept in my mind my understanding of the artifact”. Cụm từ ‘the artifact’ ở đây vẫn thay thế cho chữ ‘viên pha lê’. Godrune ở đây Art đang nói là Aroa’s Requiem)

    Nhưng, trọn cả năm phút sau, không có gì thay đổi cả.

    Tôi dừng dùng godrune này lại, và đám bụi sáng từ từ biến mất. “Tôi không nghĩ là nó bị hỏng.”

    Bé Ellie ngập ngừng hỏi: “Có lẽ trông nó giống như… mất điện hơn chăng?” Con bé đã đứng dậy và đang chầm chậm đi quanh các vòng tròn bọc lấy bệ đặt viên pha lê.

    Cau mày, tôi gom aether vào tay và truyền nó vào viên pha lê chiếu di ảnh này. Viên pha lê hấp thụ aether, nhưng nó không hoạt động lại.

    Giống như con bé đang di chuyển trong trạng thái bị thôi miên, Ellie cũng chầm chậm với tay vào viên pha lê. Mấy đầu ngón tay con bé vừa lướt qua bề mặt viên pha lê, và một tia mana nhỏ lao ra khỏi lõi con bé, chạy xuyên huyết quản rồi đi vào viên pha lê.

    Viên pha lê chập chờn sáng lờ mờ đục đục từ sâu bên trong.

    “Có vẻ như làm thế đã kích hoạt điều gì đó,” ả Lyra nói, xoắn một bím tóc đỏ rực như lửa quanh ngón tay. “Eleanor, em có thể thêm mana cho nó không?”

    “Em nghĩ vậy,” Ellie thì thầm khi ấn mạnh cả hai tay vào nó. Cơ thể nhỏ bé của con nhóc bùng lên ánh sáng trắng khi mana tinh khiết được đổ vào thiết bị kia.

    Viên pha lê phát ra ánh sáng dịu nhẹ và tiếng vo ve có thể nghe thấy được. Những cái vòng bao quanh bệ chuyển động, hơi lắc lư, nhưng chúng không nhô lên khỏi mặt đất hay bắt đầu quay quanh bệ như tôi đã thấy trong đống đổ nát đầu tiên.

    Tuy nhiên, linh cảm như có điềm gở trong lòng tôi ngày càng lớn. Tôi chỉ hy vọng rằng những tàn ảnh được lưu lại trong kiểu tâm trí gì đó của người djinn vốn ám cái xó này vẫn còn lại ở đây.

    Những cổ tự phủ quanh bệ và mấy cái vòng nằm bất động lóe sáng lên, và một giọng nói vang ra từ viên pha lê, nghe có vẻ sắc bén, già cỗi và thận trọng. “Sự sống—trong bộ xương già cỗi của tôi—nhưng…” Giọng nói nhỏ dần trong giây lát, và những cổ tự mờ đi, chỉ lóe sáng lần nữa khi viên pha lê nói, “Nhiệm vụ của tôi chưa…hoàn thành sao? Đã giao bài kiểm tra, đã trao thưởng khối keystone…Tôi đã ngủ một giấc rất lâu. Bây giờ tôi bị đánh thức vì mục đích gì?”

    Tôi liếc xuống Regis, cùng chia sẻ cảm giác tồi tệ đang lan đến với tôi từ sự kết nối tâm trí của cả hai. “Ngài Djinn, ý ông là cục keystone do ông trông nom đã được trao cho người khác rồi sao?”

    Ánh sáng bên trong các cổ tự thay đổi, gần giống như nó đang tập trung vào tôi. “Một hậu duệ xứng đáng đã tự xuất hiện… từ rất, rất lâu về trước rồi. Người này đã vượt qua các bài kiểm tra của tôi và nhận được kiến ​​​​thức mà tôi vốn bảo vệ, và bởi vậy nên cấu trúc này vốn chứa tâm trí và ký ức của tôi đã chìm vào giấc ngủ, năng lượng dùng để duy trì hoạt động của tôi được dùng cho nơi khác.”

    (Nguyên văn: “A worthy descendant presented themselves…a very, very long time ago. They passed my tests and claimed the knowledge I guarded,” Tác giả dùng các chữ ‘themselves’ và ‘they’ ở đây không có nghĩa là “họ” mà nghĩa là “đề cập đến một người mà không xác định giới tính”. Mục đích của tác giả là gây lú cho người đọc, không muốn ta nhận ra ở đây là ‘he’ hay ‘she’)

    Tim tôi đập thình thịch đau đớn, và đột nhiên cảm thấy khó thở. Siết chặt nắm tay, tôi cố ổn định hơi thở của mình. “Ông có thể cho tôi biết hậu duệ này là ai không? Hoặc loại kiến ​​thức nào chứa đựng trong cục keystone đó?”

    “Thông tin đó không được lưu trữ trong phần tàn thức này.”

    Tôi nhận thức sâu sắc rằng ánh mắt của các đồng đội đều đang dán chặt vào người tôi, nhưng tôi không nhìn đáp lại bất kỳ ánh mắt nào của bọn họ. “Còn bài kiểm tra của ông thì sao? Những dạng biểu hiện hay những người hộ vệ hay bất cứ thứ gì trước đây mà ông tự gọi ra để thử thách tôi, và thông qua những bài kiểm tra đó, tôi có thể đạt được sự thấu hiểu sâu sắc. Ngay cả khi không có cục keystone—”

    “Khu tổ hợp này thiếu năng lượng để thực hiện một bài kiểm tra khác. Dù cậu đã dùng kĩ thuật nào để đánh thức tôi thì cũng chỉ đủ cho mức ứng dụng ở cấp độ bề mặt trên cùng, chỗ lưu trữ ý thức của tôi thôi và tôi có thể cảm thấy nó đang dần cạn kiệt. Mục đích của tôi đã hoàn thành. Tôi có thể hiểu được nỗi thống khổ trong tâm trí cậu, nhưng tôi không thể xoa dịu nỗi đau cho cậu được. T…tôi…x-xin lỗi…”

    Giọng nói mất hẳn sự mạch lạc, âm lượng nho nhỏ như thể nó vọng ra từ một cái lon, rồi biến mất hoàn toàn. Tia sáng cuối cùng biến mất khỏi chuỗi cổ tự và viên pha lê.

    “Chà, chết tiệt,” Regis nói ngắn gọn, ngồi xổm xuống đất.

    “Thằng Agrona hẳn phải có nó,” tôi nói ngay tức khắc, quay sang nhìn ả Lyra tìm kiếm sự xác nhận.

    Cô ả nhún vai bất lực. “Có thể thế. Cái ‘cục keystone’ này có thể là thứ đã giúp hắn thành lập quốc gia của chúng tôi từ ngày đầu, hoặc giúp hắn sống sót qua các nỗ lực ám sát do bọn asura khác gửi đến, hoặc thậm chí giúp hắn mở khóa kiến ​​thức về những kẻ chuyển kiếp (reincarnates) và Di Sản (Legacy). Hoặc tất cả mấy thứ đó. Nhưng tôi e là mình không chắc.”

    Chị Mica bay lên khỏi mặt đất, thình lình đứng mặt Lyra. Chị ta đẩy cái búa vào vai cô ả retainer, xô cô ta dựa vào tường. “Không phải ngươi là một trong các tướng lĩnh của hắn hay đại loại thế sao? Làm thế nào mà ngươi không biết được? Đừng có nói dối bọn ta!”

    Ả Lyra hếch cằm lên và lườm lại Mica. “Chúa tể Tối cao chia tách lực lượng của hắn khá hiệu quả đấy. Không ai ngoại trừ chính Agrona nhìn thấy bức tranh tổng thể vấn đề. Các Scythe và retainer là những nhân vật chính trị, là cả cây gậy lẫn củ cà rốt dành cho của dân thường. Những hoạt động sâu hơn trong đế chế của hắn ta phần lớn được giao lại cho riêng Tộc Vritra, những kẻ vẫn còn ở lại sau khi chạy trốn khỏi Epheotus cùng hắn ta từ cách đây rất lâu. Đạo quân Wraith của hắn chẳng làm gì khác ngoài việc luyện tập và chuẩn bị, một bí mật thậm chí với gần hết lục địa của hắn.”

    (Người dịch: Ý câu trên là đạo quân Wraith làm gì thì vẫn còn là một bí mật, chứ không phải bí mật là ‘luyện tập và chuẩn bị’ đâu)

    “Tin được chết liền,” chị Mica đáp trả, đẩy cái búa mạnh hơn.

    “Nhưng tên Agrona không thể tự mình vào đây, phải không?” Regis hỏi, chẳng màng đến căng thẳng giữa hai người phụ nữ mạnh mẽ này. “Ai có thể vào đây ngoài bọn cô cơ chứ?”

    Tôi lắc đầu, không chắc lắm. Băng ngang qua phòng, tôi cầm lấy chiếc búa của chị Mica và nhẹ nhàng kéo nó ra khỏi người ả Lyra. “Chúng ta không có thời gian để cãi nhau.”

    Chị ta cằn nhằn, hạ vũ khí xuống. Hai người Lyra và Mica lườm nhau.

    Bé Ellie đang lo lắng quan sát họ trong khi nghịch gấu áo. “Vậy, chúng ta làm gì đây?”

    “Vẫn còn một tàn tích nữa ngoài kia,” tôi nói chắc nịch. “Chúng ta cần phải tìm ra nó. Ngay bây giờ.”

    Tác giả: TurtleMe
    Người dịch: Nightmoonlight


    Ghi chú của người dịch

    1. 1. Tóm tắt: Cả lũ đến được tàn tích thứ ba nhưng …
    2. 2. Có chỗ tác giả đã thể hiện chất “nhà văn” của mình khi tự chế từ loại trong tiếng Anh luôn. Search các loại từ điển không có từ đó.
    3. 3. Ver.1: Jun-27th-2023; ver.2: Sept.-19th;
    Dịch giả Nightmoonlight avatar Tôi là Nightmoonlight, dịch giả online, chính trị gia online, chuyên gia QHQT online, chuyên viên phân tích online mọi vạn vật trong vũ trụ nhé 😌 Mong mọi người ủng hộ tôi! 😁
    Loading...