Xuyên qua làn khói và rượu mạnh
Tên gốc: "Chapter 415: Through Smoke and Spirits"
GÓC NHÌN CỦA ALARIC MAER
Tôi đọc đi đọc lại lá thư của Tiểu thư Caera đến từ cái Thượng huyết tộc Denoir đẫm máu kia tới tận lần thứ ba, không chắc là do bia rượu đã khiến những lời lẽ trong thư trở nên khó hiểu hay do đó đúng là điều mà cô ta đang yêu cầu tôi làm. Quán bar phía dưới trở nên yên tĩnh—là dấu hiệu của thời gian vô định trôi qua—ngược lại mà nói thì lại là điều thực sự làm tôi khó tập trung hơn. Tôi cần tiếng ồn, chuyển động, hoạt động—cần gì đó làm tôi mất tập trung. Tôi nhớ cậu nhóc đó, mặc dù tôi sẽ không bao giờ thừa nhận điều đó với bất kỳ ai. Cậu ta là kẻ rất giỏi làm tôi mất tập trung.
Thở dài thườn thượt rồi kết thúc bằng một tiếng ợ có mùi khó chịu, tôi mở tờ giấy da ra và ngả người ra sau chiếc ghế gỗ ọp ẹp, liếc quanh căn phòng nhỏ này với thái độ như thể nó đang xúc phạm mẹ tôi vậy.
Tôi đã quay lại Thành phố Aramoor ở vùng Etril, vừa mới trốn thoát khỏi thành phố Itri ở vùng Truacia trong gang tấc, nơi tôi đã giúp tổ chức việc buôn lậu vũ khí và vật tạo tác (artifact) dọc theo bờ biển ngược lên thành phố Redwater.
Đó là một nhiệm vụ phù hợp với kỹ năng và sở thích của tôi hơn nhiều, tôi nghĩ với vẻ u ám, liếc nhìn mặt sau tấm giấy da của Tiểu thư Denoir gửi.
Nhưng các nỗ lực buôn lậu của chúng tôi đã đủ thành công để thu hút sự chú ý của con mụ Bivran thuộc Bộ ba Chết chóc (Bivran of the Dead Three), ả retainer mới của Trị vùng Truacia, dẫn đến kết quả là chìm một con tàu, chết hàng chục người, và tôi chạy bán sống bán chết.
“Giống hồi xưa nhỉ?” một bóng người lên tiếng từ góc ngoài tầm nhìn của tôi.
Tôi không buồn nhìn thẳng vào cô ta, vậy nên cô ta đi vòng qua mép phòng và dựa vào bức tường ngay trước mặt tôi. “Anh đã từng sống vì những chuyện như thế này.”
Tôi tỏ vẻ chế giễu, nhìn khắp nơi ngoại trừ ảo ảnh về người phụ nữ này, cô ta là một người có mái tóc vàng óng bao quanh khuôn mặt sắc sảo và đôi mắt cứng rắn màu nâu dường như đang nhìn chòng chọc vào tôi.
Tuy nhiên, tôi vẫn thấy đôi môi cô ấy chuyển thành một nụ cười chế giễu. “Anh nên để ý đến sĩ quan chỉ huy của mình khi cô ấy nói chuyện với anh chứ, gã quân nhân kia.”
“Cô không còn là chỉ huy của tôi nữa,” tôi lầm bầm, nhắm mắt lại và chúi người về phía trước để ngả đầu nằm xuống cái bàn nhỏ. “Tôi không còn là người lính, còn cô thì đã chết rồi.”
(Người dịch: lưu ý rằng ‘cái bàn’ ở đây theo mô tả của tác giả trong tiếng Anh là từ ‘desk’, loại bàn giấy có hộc tủ mà dân văn phòng ngồi, không phải bàn loại ‘table’ như bình thường)
Cô ấy cười nhẹ. “Suốt ngần ấy năm cố tự sát trong Khu Tàn Tích chẳng thay đổi con người anh tý nào, Al à. Anh vẫn là một kẻ điều phối (operator). Đó là lý do tại sao anh không thể đứng ngoài cuộc chiến này, dù cho anh có cố thế nào đi nữa. Anh có thể đổi phe, nhưng mục đích của anh vẫn như cũ.”
(Người dịch: Người phụ nữ mà Alaric đang nói chuyển do ảo giác sinh ra, cô ta dùng từ ‘operator’ để chỉ Alaric, tạm dịch là ‘người điều phối’ vì ta không rõ nghĩa trong câu nói lấp lửng này. Nhưng dựa vào nội dung cả chương, mình có thể đoán Alaric kiểu như vừa là dạng làm cò, đứng giữa móc nối các mối quan hệ, tức là ‘điều phối’, vừa là kẻ điều hành, tức đứng ra thu xếp các vị trí công việc, ai làm gì, ở đâu, phải làm những gì, v.v… và nhất là làm nghề do thám)
Tôi lắc đầu làm trán áp qua áp lại trên mặt bàn, tận hưởng cảm giác mặt gỗ mát lạnh áp vào làn da nóng ran của mình. “Cô sai rồi. Tôi đã thay đổi. Tôi không phải gã đàn ông như hồi cô biết.”
Cô ta khịt mũi. “Và ai có thể biết anh rõ hơn tôi? Tôi ở trong đầu anh đây nè, Al à. Mọi sự ăn năn hối hận kia, lẫn sự căm hờn và thịnh nộ này đều cháy rực như lõi Núi lửa Nishan và khiến anh cảm thấy như thể nếu anh không làm điều gì đó thì xương anh sẽ rung lên rồi tan thành cát bụi—tôi cảm nhận được tất.”
Tôi mở mắt ra khi đứng thẳng dậy và nhìn chằm chằm về phía trước. “Cô biết những gì chúng đã làm. Cô biết tại sao tôi bỏ đi. Tôi sẽ moi ruột bọn Vritra rải từ Onaeka đến tận Rosaere nếu có thể, nhưng rốt cuộc thì không ai trong chúng ta có thể làm được gì hơn ngoài trở thành một phần trong guồng máy của chúng. Cho dù có làm một ascender (mạo hiểm giả), thì suy cho cùng cũng đều làm vì lợi ích của bọn chúng. Mấy con thằn lằn giết người đó thậm chí còn tóm cả cô, phải không?”
(Người dịch: ‘The murderous lizards’ ở đây không chắc đang đề cập chữ gì, nhưng vì có mạo từ ‘the’ nên mình đoán là ám chỉ tộc Vritra)
Cô ta sải bước ngang qua phòng, di chuyển như một cái bóng, và đặt tay lên bàn, cúi xuống ghim lấy tôi bằng ánh nhìn đanh thép. “Tôi đã đưa ra lựa chọn của mình. Chuyện đã xảy ra thay đổi cả cuộc đời tôi cũng như đời anh, và anh biết điều đó. Nhưng…” Cô ta do dự, rồi đứng thẳng lên, quay lại, dựa vào cạnh bàn, lưng quay về phía tôi. “Lẽ ra cả hai ta có thể làm tốt hơn.”
Một hình bóng khác xuất hiện trong chỗ tối ở góc phòng, đằng sau chỗ người chỉ huy cũ của tôi đang đứng. Không, không phải chỉ có một bóng người. Hình bóng một người phụ nữ đang bế một đứa trẻ trên tay…
Tay tôi run lên khi tôi quờ quạo chai rượu mạnh màu hổ phách còn phân nửa từ một trong mấy chỗ hộc bàn. Sau khi dùng mấy ngón tay yếu ớt cấu vào nút bần trong vài giây để cậy nắp chai nhưng không được, thì thay vào đó tôi dùng răng cắn chặt nút bần, lôi nó ra và nhổ xuống sàn. Mắt tôi nhắm lại khi miệng chai bằng thủy tinh lạnh ngắt chạm vào môi. “Biến khỏi đầu tao đi, lũ ma,” tôi lẩm bẩm với cái chai đã mở nắp, rồi dốc ngược nó vào mồm.
Cảm giác cháy bỏng đầy thỏa mãn khi rượu chạy xuôi xuống cổ rồi vào bụng, nơi nó tỏa ra để sưởi ấm những chỗ còn lại trong cơ thể tôi.
Tôi tập trung vào cảm giác dễ chịu đó một hồi lâu, rồi hé mở nửa con mắt, nhòm ra căn phòng nhỏ. Những ảo giác kia đã biến mất.
“Chắc mình đang già dần rồi,” tôi lầm bầm, lắc lắc cái chai. “Dạo này tỉnh rượu nhanh quá…” Tôi dốc ngược cái chai lên lần nữa, uống cạn phần còn lại, rồi đặt mạnh chai xuống sàn dưới bàn.
Nhưng tôi gần như chẳng có thời gian để làm gì hơn ngoài việc thở phào nhẹ nhõm trước khi ai đó gõ nhẹ vào cửa.
“Chết tiệt,” tôi càu nhàu, chộp lấy lá thư của con nhỏ Caera và nhét nó vào túi trong áo khoác, bóp nó co dúm lại một cách cẩu thả.
“Thưa ngài,…khách của ngài đã đến,” một giọng nói làu nhàu vang lên từ mặt bên kia cánh cửa đóng.
Tôi càu nhàu: “Ờ, ờ, cho họ vào đi,”
Rên lên một tiếng, tôi đứng dậy và duỗi thẳng tấm lưng đang nhức mỏi vì ngồi quá nhiều trên mấy cái ghế cũ kỹ ọp ẹp như cái ghế này. Tôi chà mạnh tay lên mặt và vuốt qua bộ râu của mình, rồi chống tay lên bàn, bắt chước tư thế đứng của cái ảo ảnh mới hiện ra chỉ một chốc ban nãy.
Cánh cửa mở ra, và bóng một số người mặc áo choàng lẻn vào trước khi đóng cửa lại lần nữa.
Người đầu tiên bước tới trước và ngay lập tức kéo mũ trùm đầu ra, làm lộ ra một quý tộc ăn mặc chải chuốt tỉ mỉ có mái tóc đen sẫm và bộ râu quai nón. Cặp lông mày của tôi tự chúng nhướng lên.
“Đại lãnh chúa Ainsworth. Tôi không ngờ ngài sẽ đích thân đến…”
Lão ta bật lời nạt nộ: “Chuyện quái quỉ gì đang xảy ra ngoài đó vậy?”, má lão phồng lên như mấy con hopper vùng đầm lầy đang giận dữ. “Chúng tôi chẳng nhận được gì hơn ngoài sự đảm bảo từ bà Scythe Seris, hiện bà ấy vẫn đang ẩn náu đằng sau lớp khiên phép ở phía nam, trong khi những chỗ còn lại ở Alacrya vẫn dễ bị Chúa tể Tối cao trả thù. Tôi vẫn chưa thấy bất kỳ lợi ích thực chất nào từ những rủi ro mà dòng họ thượng huyết tộc nhà tôi phải gánh chịu.”
Đằng sau lão, những bóng người còn lại tổng cộng gồm bốn người, cũng hạ mũ trùm đầu của họ xuống. Bên phải lão Ector là gã Kellen đến từ Thượng huyết tộc Umburter trông có vẻ căng thẳng đang giả vờ đứng kiểm tra bộ móng tay của hắn, trong khi ở bên trái lão là cậu Sulla từ Huyết tộc Hữu danh Drusus đang đứng nhướn mày lên ngó sự việc hiện tại, cậu ta là người đứng đầu Hiệp hội Ascenders vùng Cargidan và là một người bạn cũ của tôi. Người kế đến là quả là bất ngờ, một cô gái với mái tóc vàng cắt ngắn, độ sáng của mái tóc làm nổi bật những đốm tàn nhang sẫm màu trên khuôn mặt cô bé: trừ phi tôi đang nhầm lẫn nghiêm trọng, còn không thì đây là con bé Tiểu thư Enola từ Thượng huyết tộc Frost.
Thành viên cuối trong cái nhóm kỳ lạ này là người của tôi, cô ấy hơi bước xích sang một bên đứng, tạo khoảng cách giữa cô ta với những người khác.
“Và giờ thì,” lão Ector nói tiếp, mặt hơi đỏ lên, “bà Seris yêu cầu chúng ta trực tiếp lộ diện kiểu này thì gần như chắc chắn sẽ tiêu diệt chúng ta. Liệu bà ta thực sự có một kế hoạch nào đó, hay đây chỉ đơn giản là một hành động tuyệt vọng trong một chuỗi nối đuôi nhau liên tiếp?”
Tôi chờ một lúc, để cho cái lão thượng huyết tộc này trút ra hết nỗi buồn bực của mình. Thực tâm mà nói, tôi đồng ý với lão. Độ háo hức muốn tấn công tụi Vritra bằng mọi cách có thể của tôi cũng nhiều ngang suy nghĩa trong đầu rằng những nỗ lực của chúng tôi quá nhỏ để có thể gây ra bất kỳ thiệt hại lâu dài nào hoặc đe dọa đến quyền kiểm soát tuyệt đối của Chúa tể Tối cao với lục địa của chúng tôi.
Tuy nhiên, tôi không có gì để mất. Nhưng đối với những người như lão Ector, cuộc nổi loạn này là một hành động bấp bênh như đi trên dây giữa việc chiến đấu để giành lấy một cuộc sống không còn bị bọn Vritra kiểm soát và việc phó thác toàn bộ huyết tộc lão cho một cuộc hành quyết kéo dài và đầy đau đớn.
Tôi tự nhắc mình rằng suy nghĩ trên không phải vì tôi có bất kỳ lòng đồng cảm nào với cái lũ thượng huyết tộc đang cong cớn khoe mẽ này.
Tôi thừa nhận: “Chính tôi cũng chỉ vừa mới được thông báo về hướng hành động mới này,” không chắc là cái lão thượng huyết tộc này đang mong tôi nói hay làm gì với chuyện này đây. “Tôi thừa nhận làm thế là liều lĩnh, nhưng làm được như vậy không nằm ngoài khả năng của thượng huyết tộc ngài.”
Trong khi lão Ector nghiến răng thì cô điệp viên trẻ của tôi, vốn là một pháp sư không có huyết thống tên là Sabria, hắng giọng. “Xin phép ngài, đại lãnh chúa Ainsworth. Chú Alaric ơi, hai người mang ấn emblem thủy hệ mà chúng ta thuê có khả năng thu hồi được một số thùng hàng bị thất lạc từ chuyến hàng cuối chuyển đi từ vùng Itri, bao gồm cả những đồ tạo tác giao thoa đó (interference artifact).”
(Người dịch: cụm từ ‘interference artifacts’ ở đây ta vẫn chưa biết nghĩa từ ‘interference’ này là gì do không có bất kì giải thích gì thêm)
Tôi đập bàn và cười toe toét với lão Ector. “Thấy chưa? Việc đó sẽ giúp ích đấy. Và những thứ này cũng vậy,” tôi nói thêm, lôi một xấp vải ra khỏi cái giỏ phía sau bàn.
Sau khi chụp lấy nó lúc tôi ném cho, lão Ector giũ mớ vải ra, lộ ra một bộ áo choàng màu tím pha đen của Học viện Stormcove với huy hiệu hình đám mây và tia chớp thêu nổi lên trên ngực. “Lạy Vritra, tôi phải làm gì với cái thứ này đây?”
Tôi nói: “Mặc vào đi,”, ném cả mấy bộ cho Kellen, Enola và Sulla. “Trong khoảng ba mươi phút nữa, có một nhóm lớn những người ủng hộ đến từ Học viện Stormcove sẽ diễu hành qua quán bar này khi đang trên đường đến một giải đấu giao hữu giữa hai Học viện Stormcove và Rivenlight. Một nhóm nhỏ người của chúng ta sẽ lẫn vào đám đông. Các ngài sẽ rời đi cùng họ, nhập vào nhóm cho đến khi mỗi người có thể an toàn tìm đường đến cổng dịch chuyển di động.”
“Quá đủ cho mấy lời phàn nàn và những trò tình báo không cần thiết rồi,” Tiểu thư Frost nói, bước lên phía trước để đứng ngang hàng với lão Ector, người cao gần bằng cô ta.
Lão Ector nghiến chặt quai hàm khi cố nén lại bất cứ phản ứng nào có thể nảy ra trong đầu. Cá nhân tôi nghĩ, giữa hai người họ, tôi thấy cô bé Enola đáng sợ hơn cho dù cô ta còn rất trẻ. Và mặc dù, với tư cách là lãnh chúa thì lão Ector có cấp bậc cao vượt cô bé, nhưng Thượng huyết tộc Frost vẫn quyền lực hơn Thượng huyết tộc Ainsworth rất nhiều.
“Chúng ta đã thực hiện những lời hứa đó. Phân nửa lý do khiến ba tôi đồng ý tham gia cuộc mạo hiểm điên rồ này là vì tôi đã thuyết phục ông ấy rằng Giáo sư Grey—à xin lỗi, Ascender Grey xứng đáng. Tiểu thư Caera từ Thượng huyết tộc Denoir đảm bảo với chúng tôi rằng thầy ấy có liên quan đến chuyện này, nhưng chúng tôi đã không gặp hay nghe tin tức gì về thầy ấy kể từ vụ Victoriad.”
“Chà, đã có cuộc tấn công vào vùng Vechor đấy thôi,” gã Kellen nói với một cái nhún vai khó chịu.
Tôi tò mò nhìn cô bé. Kể từ khi nói lời tạm biệt và tiễn cậu ấy qua cánh cổng vào Khu Tàn Tích, tôi đã biết được nhiều điều về Grey, hay còn có tên là Arthur Leywin, cậu ta là một tướng Lance của lực lượng Liên minh Tri-Union của lục địa Dicathen, tôi tự nhắc thế cho mình nhớ. Biết về những gì cậu ta đã làm ở Học viện Trung tâm và giải đấu Victoriad, cũng như những gì cậu ấy đã làm được trong cuộc chiến tranh đó trước khi dừng chân ở lục địa của chúng ta. Tôi tự hỏi liệu cô bé có háo hức đi theo sự lãnh đạo của cậu ấy nếu cô ta biết cậu ấy thực sự là ai không?
Nhưng đó không phải là điều để tôi quyết định. Bà Scythe Seris Vritra sẽ xác định khi nào mọi người biết mấy cái tiểu tiết đó, hoặc có lẽ bà ấy đang chờ chính Arthur tự tiết lộ chuyện này.
Bất chấp điều đó, phần lớn sự hỗ trợ cho chúng tôi sẽ xoay quanh sự quan tâm của đám thượng huyết tộc và huyết tộc hữu danh đối với cậu ấy.
Tôi càu nhàu: “Cậu ấy là kẻ bị truy nã gắt gao bậc nhất ở Alacrya, phải không? Cô sẽ không thể bắt gặp cậu ta đi dạo giữa ban ngày ở chỗ mà bất kỳ lũ Scythe hay bọn Chúa tể già cỗi nào cũng bắt gặp được cậu ấy,”
“Nhưng thầy ấy ở ngoài kia à?” cô bé hỏi, một chút tuyệt vọng len lỏi vào tông giọng vốn ổn định của nó. “Tin đồn đang bắt đầu lan rộng. Có tin đồn rằng thầy ấy đã bị bắt. Một số người—ngay cả những người đã ở cái sự kiện đó—khăng khăng rằng thầy ấy chưa bao giờ trốn thoát khỏi đấu trường Victoriad đấy.”
Gã Kellen bật ra một tiếng cười nhỏ. “Dĩ nhiên chúng sẽ nói thế. Khá khó để duy trì ảo tưởng rằng chúng đang kiểm soát tuyệt đối mọi thứ nếu có ai đó đang thực sự trốn được sự kiểm soát này, phải không?”
Bé Enola quay sang lườm gã ta, làm biến đi nụ cười tự mãn trên mặt gã.
Tôi xoa sống mũi bằng những ngón tay chai sần, đang cảm thấy cần uống thêm một ly nữa. Bọn Vritra đã giúp tôi phải ngồi chung mâm với cái lũ thượng huyết tộc này. “Cậu ấy ở ngoài kia.”
Cậu Sulla vốn ở vị trí khá hiểm khi là huyết tộc hữu danh duy nhất chen giữa đám thượng huyết tộc này, từ nãy giờ đã cẩn thận tránh làm gián đoạn cuộc trò chuyện, nhưng dường như anh ta thấy có cơ hội để cất lời: “Hiệp hội Ascenders đã cẩn thận điều động các nguồn lực để chuẩn bị cho lời kêu gọi hành động. Anh Grey rất được yêu mến và kính trọng với chúng tôi, mặc dù tất nhiên là việc lôi kéo thêm những ascender mới vẫn là một công việc nguy hiểm và chậm chạp—Một lời nói không đúng đến không đúng lỗ tai có thể dẫn đến việc toàn bộ hiệp hội bị giải tán—nhưng chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một lực lượng khá lớn, cùng với sự đầu tư đáng kể về nguồn lực—vũ khí, vật tạo tác, và những thứ tương tự. Tất cả mọi người đã tập hợp lại dưới ngọn cờ của anh ấy.”
Tôi không thể không lắc đầu, tò mò không biết Arthur sẽ nghĩ gì về việc trở thành lời kêu gọi tập hợp của cuộc nổi dậy của người Alacrya chống lại tụi Vritra.
Tôi cá là không thoải mái, tôi nghĩ vậy và thích thú. Nhưng không phải là kiểu không thoải mái như của tôi.
Tôi nói: “Giống như vụ ở vùng Vechor, Grey sẽ làm mọi người biết đến sự hiện diện của cậu ấy khi cậu ta thấy nó phù hợp,” hoàn toàn nhận thức được rằng mình đang nói toạc móng heo ra. “Còn hiện giờ, tất cả chúng ta đều nhận lệnh hành quân từ bà Scythe Seris Vritra. Thưa ngài Đại lãnh chúa Ainsworth, tôi không thể nói ra mục đích đằng sau yêu cầu của bà ấy đối với thượng huyết tộc của ngài, nhưng tôi được chỉ thị phải dùng toàn bộ mạng lưới của tôi gồm những người cung cấp thông tin và người điều phối phục vụ ngài. Tổ chức điều phối việc thu nhận các thứ cần thiết, điều khiển các hệ thống làm việc ăn khớp nhau và thậm chí xử lý các tàn dư hậu quả, nếu có bất kì điều gì như vậy xảy ra.”
Lão Ector nhìn tôi như thể tôi vừa đề nghị làm thê thiếp cho lão vào buổi tối. “Mặc dù tôi chắc chắn rằng anh đủ các nguồn lực, nhưng tôi không hiểu anh có thể hỗ trợ tôi như thế nào, trong khi sự thật là đây thuộc trách nhiệm trực tiếp của thượng huyết tộc nhà tôi.”
Tôi nhún vai tỏ vẻ xem nhẹ sự xúc phạm này. Còn hàng ngàn mối lo treo lủng lẳng như mấy con dao trên đầu, và sự tôn trọng—hoặc sự thất lễ—của lão đại lãnh chúa này thậm chí gần như chẳng thể so bì được.
Tuy nhiên, nhỏ Sabria lại chẳng nghĩ như thế. “Ồ, tôi xin lỗi thưa ngài Đại lãnh chúa Ainsworth, nhưng có điều gì đó trong toàn bộ vụ nổi-loạn-chống-lại-các-vị-thần này chưa tốt như mong đợi của ngài không? Chính xác thì huyết tộc ngài đã hy sinh những gì để ta đến được giai đoạn lúc này nào? Tôi hỏi thế vì nội trong tuần này tôi mất con mẹ nó đến ba người bạn vào tay bọn lính trung thành với đám Vritra đấy.”
Lão Ector tỏ vẻ khinh khỉnh nhìn xuống cô gái kia. “Có lẽ cô và lũ bạn cô nên làm tốt hơn việc của mình.”
“Sao ông dám—”
“Đủ rồi!” Tôi quát lên ngắt lời, nhìn chằm chằm vào nhỏ Sabria. “Cô đang mất bình tĩnh đấy. Cuộc cãi vã này không phục vụ mục đích nào ngoài việc gây mất thời gian và giảm sự sẵn sàng của chúng ta. Nếu chúng ta đã xem xong cuộc thi ai gây mất thời gian lâu nhất và nhằm vào mấy chuyện vớ vẩn nhất, thì ta hãy tiếp tục với mục đích chính của cuộc họp này.”
(Nguyên văn: “If we’re done seeing who can piss the farthest and least accurately,” Cụm từ ‘piss’ ở đây có hai nghĩa. Nghĩa bóng như trên mình dịch, gốc nó đúng ra phải là phrasal verb ‘piss around/about’ có nghĩa là ‘lãng phí thời gian cho mấy trò ngớ ngẩn’ và mình nghĩ chỗ này tác giả cố tình viết thiếu chữ ‘around/about’ để còn thêm nghĩa đen nữa. Nghĩa đen là “Nếu chúng ta đã xem xong ai đái xa nhất và nhắm ít chính xác nhất,…” ý của câu này nguồn gốc đến từ sự ganh đua của mấy thằng con nít ở phương tây, khi tụi nó thi xem ai vươn vòi nhắm đái vừa xa vừa chính xác vào một điểm nào đó hơn. Câu này ngầm ý đá đểu hai người này kèn cựa nhau như con nít, cũng ngầm ý chửi riêng nhỏ Sabria là “đàn bà đái không qua ngọn cỏ” khi mà như đoạn văn phía trên, đầu óc ngắn nghĩ không đủ sức kiềm chế cơn giận khi bị xúc phạm vì mục tiêu chung lớn hơn, thế nên mới nói lảng quá chuyện khác)
Những người còn lại—gồm ba quý tộc đến từ thượng huyết tộc, một ascender thuộc huyết tộc hữu danh và một đứa trẻ mồ côi không huyết thống—đều im lặng, và mọi sự chú ý đổ dồn vào tôi. Cuộc đời quả là một trò đùa chẳng vui mà đầy cay đắng, tôi thầm nghĩ. Câu này kéo theo câu kia, để rồi tới khi nó kết thúc, ta quên mất trò đùa bắt đầu từ đâu và câu chốt gây hài cuối trò đùa này là gì. Tôi tu một hơi từ bình rượu đeo cạnh hông, không để tâm đến những ánh nhìn vào tôi—đặc biệt là từ đám thượng huyết tộc kia—và bắt đầu nói về chi tiết những chỉ dẫn mà tôi nhận được.
Tôi và lão Ector phải mất hơn hai mươi phút mới đồng thuận được với nhau. Sự hỗ trợ từ Thượng huyết tộc Umburter không thực sự cần thiết, nhưng nó sẽ làm cho một vài khía cạnh của kế hoạch này trở nên dễ hơn rất nhiều. Tôi hoàn toàn không chắc tại sao bà Seris lại mời những người nhà Frost, có lẽ ngoại trừ mục đích giữ cho đám nhà Ainsworth nghe lời, và có thể ép buộc lão Đại lãnh chúa nhà Frost ra tay. Suốt từ trước đến giờ, lão ấy luôn miễn cưỡng gánh bất kỳ rủi ro thực sự nào, nhưng tôi có thể nói rằng việc đặt cháu gái lão—người đang là ngôi sao sáng của thượng huyết tộc nhà lão—ngay giữa điểm nóng của mọi việc cho thấy lão ta đã sẵn sàng tham gia.
Hoặc thế, hoặc lão ta là một tên khốn nhẫn tâm tàn bạo.
Còn về phần Sulla, mạng lưới của tôi và Hiệp hội Ascender đã gắn kết toàn bộ chiến dịch của bà Seris lại với nhau, và chúng tôi gần như luôn có một thành viên thứ hạng cao tham gia chính thức vào các cuộc họp lén lút bí mật kiểu này. Tôi nghi rằng Sulla tự mình đến đây vì cùng một lý do mà lão Ector và Tiểu thư Frost trẻ tuổi đây cùng gặp phải: bọn họ đang trở nên lo lắng.
Tôi nói: “Tốt hơn là nên mặc những bộ đồng phục đó vào,” hất đầu chỉ vào đống vải mà mỗi người họ đang cầm. “Chỉ còn vài phút nữa là đoàn diễu hành đến, và sau đó các vị cần phải nhanh lên.”
Có một khoảnh khắc im lặng trôi qua khi mỗi người họ khoác bộ áo choàng cải trang lên mình.
“Chú Alacric ơi?” nhỏ Sabria hỏi, nghiêng đầu nhìn ra cửa với vẻ ngờ vực.
“Hửm?”
“Chú có thấy bên ngoài yên tĩnh quá không?”
Tôi tập trung vào tiếng vo ve nho nhỏ bên tai, lắng nghe tiếng ly cốc thường ngày va chạm lách cách trên mặt bàn quầy bar hoặc tiếng những chiếc ghế đẩu kéo lê vang lên kèn kẹt trên sàn nhà bị chà xước nhiều lần. Nhưng nhỏ Sabria nói đúng, quầy bar ở tầng dưới hoàn toàn im lặng.
“Chết tiệt, đã đến lúc—”
Cánh cửa bị xé toạc ra khỏi bản lề và văng vào trong phòng, nổ tung thành một cơn bão đầy các mảnh vỡ văng vào lớp khiên chắn được gã Kellen niệm phép ra nhanh chóng.
Chỗ khung cửa bị mở ra là một khoảng trống tối đen như mực.
Nhảy bay qua mặt bàn, tôi đẩy lão Đại lãnh chúa Ainsworth sang một bên và kích hoạt giai đoạn hai trong ấn crest tên là Myopic Decay (Suy giảm Tầm nhìn gần) của mình. Mana trong không khí của căn phòng này rung lên, nhắm vào lượng mana đang dồn vào cặp mắt kẻ thù và tạo tiếng ù ù dữ dội để làm gián đoạn tiêu điểm nhìn trên giác mạc của tên đó, khiến thị lực của đối thủ bị mờ đi nghiêm trọng.
(Người dịch: đoạn này tác giả mô tả chiêu Myopic Decay rất khó hiểu và dùng cụm từ “its inhabitants eyes” mình nghi là sai cả lỗi ngữ pháp compound noun lẫn lỗi chính tả hoặc lỗi dùng nhầm từ ‘inhabitants’. Nên mình cố dịch theo cách hiểu của mình. Theo mình đoán, khi kẻ thù phục kích xông vào phòng, bên ngoài tối sẵn thì chúng phải truyền mana lên mắt để tăng cường thị giác trong bóng tối, thế nên chiêu của Alaric là đánh vào lượng mana trong võng mạc kẻ thù)
Cùng lúc đó, tôi truyền một xung mana xuống sàn, kích hoạt một thiết bị ngắt-mana mà tôi đã cài đặt như một giải pháp phòng ngừa dùng khi tôi rời chỗ này và quay lại Aramoor.
Nhưng, dù tôi đã di chuyển nhanh thế, kẻ thù của chúng tôi lại còn nhanh hơn.
Một bóng phụ nữ nhìn không rõ vì đầy khói bọc quanh toàn thân làm chỉ thấy mỗi mái tóc cắt ngắn màu bạch kim sáng, ả ta đang bay trôi tà tà vào phòng từ khoảng trống ở khung cửa, dường như ả ta nổi lơ lửng trên mặt đất khi đứng trên một đám mây đen. Những
tia tua rua1
tạo thành từ bóng tối cứng như thép trồi lên quanh ả như ngọn lửa đen, và khi sức mạnh của tôi khởi động thiết bị ngắt-mana đầu tiên, một tia trong đám tua rua đó lao tới như ngọn giáo, phá tan khiên phép của gã Kellen và cắt xuyên qua xương đòn gần vai hắn.
(Người dịch: có hình minh họa sợi/tia tua rua (tendrils) cuối bài)
Tự sàn nhà bị xé toạc thành từng mảnh, khiến chúng tôi lao thẳng xuống quán bar tầng dưới. Bàn tôi ngồi—và cả ba chai rượu giấu trong hộc bàn—lao xuống đâm sầm vào kệ rượu sau quầy bar bẩn thỉu. Tôi va vào quầy bar và rướn thân về phía trước để cuộn tròn người lại, hông đập mạnh xuống sàn nhưng rồi đứng lên được.
Con bé Enola đáp xuống một cái ghế đẩu làm nó vỡ tan vì lực đáp hướng thẳng xuống kèm sức nặng của con bé, nhưng mana của cô bé bùng lên và con bé đứng dậy mà không vấp ngã. Lão Ector thì kém may mắn hơn. Mất thăng bằng từ cú xô ban nãy của tôi, nên lão tiếp đất khá mạnh, đầu xém đập vào quầy bar khi người lão đập xuống sàn nhà với một lực đủ mạnh làm vỡ cả mấy tấm ván gỗ lót sàn. Còn Sulla đã biến mất khuất dạng sau quầy bar,.
Tôi tập trung nhìn gã Kellen, đang bị treo lủng lẳng trên đầu chúng tôi cao cỡ mười lăm feet. Kẻ tấn công của chúng tôi do không bị ràng buộc bởi trọng lực nên đã không rơi cùng với chúng tôi. Trong khi tôi đang quan sát, cái tia tua rua bằng bóng tối kia tách ra làm hai, một cái xé toạc vai Kellen theo hướng thẳng lên, cái còn lại cắt bổ xuống hông gã ấy. Hai nửa người của gã văng xoắn ốc theo hai hướng ngược nhau, nhuộm mặt sàn và tường đỏ thẫm.
Rồi tôi lại để ý đến nhỏ Sabria. Rìa mép sàn tầng trên vẫn chưa bị sập, cô gái ngốc nghếch này đang dựa lưng vào sát tường và chỉ đứng bằng gót chân. Ả đàn bà trong bóng tối—là một retainer tên Mawar, được gọi là Bông hồng Đen của vùng Etril—đã quay lưng lại với nhỏ Sabria. Hy vọng duy nhất cho cô gái này là đứng yên đó và để con ả retainer đuổi theo tôi.
Con nhỏ Sabria nhảy lên, đạp cả hai chân vào tường và bật tới, một lưỡi kiếm cong hiện ra trong tay. Cơ thể nhỏ này phát ra ánh sáng màu cam mờ khi kích hoạt luồng hào quang (aura) rực lửa, và lưỡi kiếm chém lướt không khí về phía sau cổ ả retainer kia.
Ả Mawar lơ đãng như đang xua tay đuổi ruồi, ả ta vung những tia tua rua của mình ra và tóm lấy nhỏ Sabria đang bay tới bên hông. Đà bay của cô gái bị chuyển hướng và cô ta bị thảy bay ra khỏi chỗ ả retainer và văng xuyên tường kèm một tiếng va chạm kinh hoàng.
Sau đó, đôi mắt có màu vàng như mắt mèo của ả đàn bà này dán chặt vào tôi, và tôi cảm thấy ruột gan mình quặn lại.
Đừng có đái ra quần chứ, tôi thầm nghĩ, cố nín chim lại.
Cô bé nhà Frost đang di chuyển nãy giờ, lao về phía cửa sau, tránh khỏi chỗ tôi và Ector. Tôi vẫn đang truyền mana vào chú phép Myopic Decay, vì vậy trừ tôi ra thì trong tầm nhìn của mọi người cô bé sẽ chỉ là một vệt mờ mờ. Hy vọng rằng nó đủ để giữ cho ả retainer không xác định được những người khác. Tuy nhiên, làm thế sẽ chẳng lợi ích tý gì nếu cả lũ đều bị tóm ở đây.
(Nguyên văn: “away from me and Hector.” Có lẽ tác giả đánh máy nhầm từ “Ector”)
Bằng một tay, tôi nắm lấy lưng áo tunic bằng lụa của lão Ector và nhấc lão đứng lên và hướng về phía cửa trước, buộc con mụ retainer phải phân tán sự chú ý của ả.
Nhiều tia tua rua như khói cuộn tròn trước cửa, vì vậy tôi đổi hướng và tiến đến chỗ cửa sổ gần nhất. Tôi lầm bầm: “Nếu được thì ngài hãy tự che chắn bản thân mình,” rồi dồn mana vào cánh tay khi tôi nhấc bổng lão Ector lên và ném về phía cửa sổ.
Tôi đã có thể cảm thấy mana của con ả retainer thay đổi theo sự tập trung của ả khi ả ta chụp bắt lão Ector bằng nanh vuốt làm từ bóng tối. Tôi truyền một xung mana nhỏ vào một trong những ấn mark của mình tên là Aural Disruption (Gián đoạn Thính giác), tạo ra một cơn sốc mana hệ âm thanh dùng để gây gián đoạn các khả năng truyền dẫn mana bằng cách khiến các pháp sư thi triển phép bị mất tập trung và thu hút sự chú ý của họ về phía tôi. Đòn này gần như chẳng đủ mạnh để gây choáng một kẻ mạnh mẽ như retainer, nhưng tôi cảm thấy chút thỏa mãn trong lòng khi những xúc tu nhào tới bắt lão Ector đang quằn quại một chỗ trong nháy mắt, chỉ vừa đủ lâu để lão già ấy bay ngang chúng và đâm xuyên qua cửa sổ.
Đằng sau tôi, tôi nghe tiếng con bé Enola hét lên.
Ánh nhìn bối rối của ả Mawar vẫn tập trung hoàn toàn vào tôi khi ả dần đáp xuống từ căn phòng trên đầu, di chuyển chậm chạp trong làn sương đen của ả, nhưng mấy tia tua rua đã quấn quanh người cô bé nhà Frost và giữ chặt con bé.
Tôi nghiến răng. Trong cả lũ bọn tôi, con bé là người mà tôi không muốn bị bắt nhất.
Cảm nhận được đòn tấn công sắp tới, tôi lao sang bên phải khi những sợi tua rua này cố quấn lấy chân và phần thân tôi, cảm thấy chúng vừa cọ qua lưng. Tôi lăn tròn tới chỗ chân mấy cái bàn, nhấc một cái lên và ném bay về phía ả retainer. Khi tầm ngắm trực diện bị che mất, tôi dồn thêm mana vào ấn Myopic Decay, kích hoạt mức thứ ba của ấn crest này.
Cái bàn vỡ tan, và vài sợi tua rua quất vào tôi như các đòn roi từ mọi phía. Cơ thể tôi giờ thành hình dáng lờ mờ mơ hồ, một sợi tua rua vòng quanh người tôi cột lại. Tôi cúi hụp xuống né, và nó gần như cắt xuyên qua những ảo ảnh. Toát mồ hôi hột vì cố gắng vừa nãy, tôi gửi những hình dáng người mờ ảo chạy đi khắp mọi hướng, trong khi tôi phi thẳng về hướng Enola.
Những sợi tua rua khua lung tung như mấy lưỡi dao tuốt lúa, hất những mảnh gỗ vụn bay như hoa giấy khắp không trung trong khi ả retainer chẻ cái quầy bar làm đôi.
Một tấm ván gãy ra dưới chân tôi, làm tôi vấp ngã. Con bé ở ngay trên đầu tôi.
Chính lần dùng thứ hai ấn Aural Disruption để bùng nổ cơn sốc hệ âm thanh đã cứu tôi vào lúc tôi ngã sấp con mẹ nó mặt xuống đất để né những cái tua rua đang tìm cách bắt tôi, làm chúng run rẩy và đông cứng trong đúng-cái-khoảnh-khắc-cần thiết đó. Nhưng mấy cái tua rua ở khắp mọi nơi quanh tôi. Con ả retainer chẳng hề tỏ vẻ vội vàng gì khi tiến về phía tôi, có lẽ ả nghĩ rằng tôi đã bị khóa cứng lại và không thể chạy được.
Tôi có thể thấy đôi mắt chẳng giống người của ả đang nheo lại khi gắng nhìn xuyên qua bóng mờ do ấn Myopic Decay tạo thành. Tôi không ngờ rằng ả lại tốn quá nhiều thời gian để truyền đủ mana vào mắt nhằm chế ngự chú phép của tôi, và nếu ả làm được vậy, cả Enola và tôi sẽ lộ danh tính.
Ánh sáng nơi này nhấp nhá sáng tối không đồng đều, và tôi nhận ra rằng than đã bị văng ra khỏi lò sưởi, thắp lên nhiều đốm lửa nhỏ ở hàng tá chỗ khác nhau.
Khả năng duy trì ấn crest này của tôi yếu đi khi tôi dồn tất cả mana còn dư vào ấn emblem. Những đốm lửa nhỏ phát nổ thành những ánh lửa lóe sáng gầm rú, nhấn chìm cả quán bar qua từng giây một. Tuy nhiên, ánh sáng từ mấy đống lửa trại này tỏa ra có màu bạc rực rỡ, sáng đến mức không nhìn nổi, và đột nhiên cái quán bar bị đập phá te tua này sáng rực như mặt trời.
Con ả retainer rít lên và đưa tay lên che mặt, đúng như tôi mong đợi.
Lao vào giữa đám tua rua đang vặn vẹo, tôi chạy hết tốc lực về phía con bé Enola. Từ lớp túi lót trong áo khoác của mình, tôi lôi ra một thiết bị ngắt-mana khác, truyền một luồng mana vào nó trong vòng nửa giây rồi ném nó lên không trung về phía con mụ retainer kia. Nó bùng lên tiếng ‘phụp’ khá nhỏ làm tai tôi ù đi, phát ra một xung lực không ổn định, thứ có thể gây vỡ tường, nát sàn nhà hoặc trong trường hợp khẩn cấp thì nó có thể hoạt động như một loại vũ khí tạo chấn động.
Ả retainer quay cuồng lùi lại sau vụ nổ, chẳng hề hấn gì nhưng bị hất văng xa hơn. Ả ta đang phải vật lộn để đứng vững trong ánh sáng chói lòa và dường như hoàn toàn mất dấu tôi.
Trong khi tôi căng óc nghĩ kế hoạch giải thoát Enola, thì có một luồng hào quang màu vàng kim bao quanh cô bé, đẩy lùi cái thứ ma thuật trái ngược màu sắc của ả retainer. Tôi nhận ra đó là một ấn emblem, và đã bị sốc khi một pháp sư trẻ thế mà đã có ấn mạnh như vậy.
Mớ tua rua không thể bám vào luồng hào quang vàng kia, và ả retainer chắc hẳn đã cảm nhận được điều đó, bởi vì thay vì tiếp tục dùng như cũ thì ả làm mớ tua rua tan chảy nhập vào nhau tạo thành ba xúc tu bằng bóng tối đầu sắc nhọn như mũi giáo. Một cái đâm vào vai Enola, nhấc bổng cô bé lên và đẩy con bé vào tường. Cái thứ hai đâm vào ngực con bé nhưng thay vào đó trượt đi và đâm xuyên thủng vách thạch cao. Mũi thứ ba giống như một thanh kiếm cắt ngang cổ họng con bé, khiến luồng hào quang vàng rạn nứt rồi vỡ ra, và cô nhóc này gục ngã xuống sàn.
Trong một khắc, tôi sợ điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, nhưng không có máu. Chú phép từ ấn emblem của con bé đã hấp thụ phần nguy hiểm nhất của đòn đánh, nhưng chuyển động của con bé rất chậm chạp và đôi mắt của cô bé mất tập trung. Con bé đã bị thương, có lẽ bị chấn động, hoặc ít nhất là suýt rơi vào tình sốc phản vệ (backlash) khi cố gắng chống lại những đòn tấn công mạnh mẽ như vậy.
Tôi chú tâm vào ấn emblem của mình, truyền một làn sóng mana xung kích chạy lan qua ngọn lửa đang nuốt chửng mọi bề mặt tiếp xúc của đồ vật xung quanh mình và nhắm mắt trước kết quả này. Ngay cả khi chỉ cảm nhận qua mi mắt đang nhắm, tôi vẫn thấy được ngọn lửa bạc tỏa sáng gây chớp lóe đến mức cả chói mắt. Nhưng tôi không còn đủ sức để vận cả hai ấn crest và emblem cùng lúc, bởi vậy nên tôi bỏ không tập trung niệm phép Sun Flare (Mặt trời Chớp lóe) nữa.
Ánh sáng lập tức mờ đi, nhưng nó không tắt hẳn. Ngọn lửa bao trùm hết mấy tấm ván lót sàn và xà nhà trên trần, và tôi nghe được tiếng một phần tòa nhà đang sụp xuống, mặc dù tôi không thể nhìn tới các khu vực lân cận chỗ mình đứng ngay tức khắc được.
Con bé Enola loạng choạng đứng dậy, và chỉ có nhờ thần may mắn thì mấy tua rua như lưỡi hái lia xung quanh cô bé mới chém hụt được khi mà chúng vung qua đảo lại như bị mù.
Tôi xoay người để tránh một nhát chém kiểu vậy rồi tóm lấy cô gái kia bằng cả hai tay, nhào vào che và kéo cô bé lại gần mà không giảm tốc độ chạy. Tôi chỉ có một khắc ngắn ngủi để liếc dọc theo phía sau quầy bar nhằm tìm Sulla, tôi sợ rằng mình sẽ nhìn thấy cơ thể đang cháy của anh ta giữa đống đổ nát của kệ rượu sau quầy, nhưng anh ấy không có ở đó. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng, sau hết thảy những chuyện điên rồ này, anh ta đã tẩu thoát được bằng cách nào đó.
Quay lưng lại áp tường, tôi dồn toàn lực va mạnh vào bức tường vốn không còn vững chãi, tông xuyên qua nó và gần như ngã nhào ra sau. Điều này đã cứu mạng cả hai chúng tôi, vì một trong mấy cái tua rua phóng theo qua lỗ hổng trên tường đâm vào hai đứa tôi, nhưng chỉ làm trầy xước cánh tay của tôi thay vì ghim xuyên ngực cả tôi với Enola.
Không còn thời gian để băng bó vết thương hay ngưỡng mộ điềm may liên tiếp của mình, tôi lao xuống dãy hành lang ngắn với Enola trong tay. Cuối hành lang là một cái cửa sổ, nhưng tôi tung ra một xung từ chiêu Aural Disruption, lần này tạo thành một vụ nổ cục bộ, làm kính và khung cửa vỡ tan, và tôi nhảy ào qua mà không hề giảm tốc.
Mặc dù tôi không dám nhìn lại, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng trần quán bar đổ sập xuống tòa nhà mà giờ là cả một địa ngục lửa bên dưới.
Khắp đường phố đều có người, những người mặc áo choàng đồng phục màu tím, phân nửa trong số họ đeo mặt nạ. Tôi cũng có mấy cái mặt nạ trong hộc bàn, nhưng chưa kịp có cơ hội giao chúng cho mọi người. Ôi trời, tôi nhăn nhó nghĩ. Đó hầu như chưa phải vấn đề tệ nhất với chúng tôi bây giờ.
Đám đông vốn đã dừng hẳn lại để xem vụ cháy, giờ đang hoảng loạn. Cuối cùng, tôi ngó lại và nhận ra tại sao. Con mụ retainer đã bay ra khỏi ngọn lửa, khuôn mặt vô cảm của ả giờ đây như bị khắc lên vẻ cau có bực dọc khi ả ta đang tìm kiếm chúng tôi trên đường phố. Chỉ mất một lúc để những người đang đứng xem vỡ trận, xô đẩy và la hét.
Cặp mắt vàng hoang dại đã bắt chạm mắt tôi, và tôi văng tục ngay tức khắc.
Bàn tay ả retainer nâng lên, những ngón tay giãn dài ra vươn về phía tôi như móng vuốt.
Với một cánh tay đang gánh con bé Enola, tôi luồn tay còn lại vào áo khoác của mình và tung vài viên nang con nhộng lên không trung, chúng rung rung do chịu tác động từ chiêu Aural Disruption, rồi bị xé toạc lớp vỏ và kích hoạt thứ được chứa bên trong.
Làn khói dày đặc bắt đầu lan tỏa ra khắp con đường nay, nuốt chửng gần hết đám đông đang đứng ngay lập tức.
Và rồi tôi lại chạy tiếp, kéo theo cô gái nhà thượng huyết kia bên cạnh, và chờ hệ quả xấu sắp đổ xuống đầu. Thật không may, tôi biết nỗi sợ tăng thêm thiệt hại phát sinh sẽ không ngăn được con ả Mawar tung ra những gì tồi tệ nhất mà nó có, và tôi thì hết mánh rồi.
Tay tôi tự động chạm vào đèn báo hiệu treo ở thắt lưng, nhưng tôi quyết định không dùng nó. Người của tôi chẳng thể làm gì chống lại nổi con ả retainer này ngoại trừ việc đâm đầu vào tự sát.
Tuy nhiên, thay vì có tiếng va chạm của ma pháp hứa hẹn xé toạc vạn vật, thì giọng nói bất ngờ của nhỏ Sabria hét lên trong đêm, xuyên qua tiếng ồn ngày một tăng dần của đám đông đang phát rồ xung quanh. “Ê này, trò giỏi nhất mày làm được chỉ có nhiêu đó thôi ư, con chó cái kia?”
Trên mái tòa nhà ở cạnh quán bar đang cháy âm ỉ, chỗ đó gần như không nhìn thấy được dưới làn khói, nhỏ Sabria đang đứng với mỗi bên tay cầm một thanh kiếm cong. Cô ta hơi đứng cà nhắc nghiêng sang một bên, và tôi đoán rằng cô ấy bị thương nặng—ít nhất là gãy vài xương sườn—nhưng tôi không thể không cảm thấy niềm tự hào dâng lên khi thấy cô ta nhìn chằm chằm xuống con mụ retainer bên dưới.
Sau đó, với cả hai lưỡi kiếm úp xuống như hai chiếc răng nanh dài, cô ta nhảy khỏi mái nhà, lao vút qua không trung về phía ả retainer. Tôi đã mong những sợi tua rua bóng tối kia sẽ lao đến giúp con ả Mawar phòng thủ, nhưng thay vào đó, ả retainer quơ cánh tay qua và tóm lấy cổ họng Sabria. Những lưỡi kiếm vẫn lao về mục tiêu, nhưng chỉ sượt qua lớp mana mạnh mẽ bao phủ cơ thể con mụ retainer rồi dội văng đi chỗ khác.
Không còn gì hơn ngoài một tiếng rít lên khó chịu, ả Mawar siết chặt, xé toạc cổ họng nhỏ Sabria. Bằng một cử động quay nhanh bất thình lình, ả ta ném cái xác xuống đống lửa.
Một tia lửa bắn ra từ ô cửa sổ gần đó, trúng vào ngực con mụ retainer. Rồi đến một ngọn giáo băng phóng ra từ trong đám đông. Nhiều đòn phép cũng bay ra từ những tòa nhà khác, đến từ khắp các hướng khác nhau.
Tôi cảm thấy có thứ gì đó trong lòng tôi tê cứng. Tôi cằn nhằn: “Lũ ngốc các người, ta có ra hiệu tấn công đâu,”
Chẳng có đòn phép nào gây ra thiệt hại nặng hơn một vết xước cả, nhưng đó là tất cả những gì tôi cần. Dồn mọi mana tôi còn lại vào ấn crest tên Myopic Decay, thêm lần nữa tôi nâng chiêu lên giai đoạn thứ ba, mở rộng mức ảnh hưởng của chiêu lên người con bé Enola. Tôi cần tìm một người của phe mình, một ai đó đã cải trang lẩn trong đám đông có thể giúp con bé trốn đi. Cho dù đang trong làn khói, chuyện đó cũng không tốn quá nhiều thời gian; vì bọn họ cũng đang tìm kiếm tôi.
Một người đàn ông với mái tóc vàng dài và đôi mắt đen dữ tợn đến cạnh bên tôi, trông có vẻ nghiêm nghị. “Thưa ngài, chúng tôi đã đưa Đại lãnh chúa Ainsworth và Ascender Drusus ra ngoài rồi, nhưng—”
Tôi đẩy cô bé đang trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh vào vòng tay cậu ta. Cả hai người họ đều mặc đồng phục màu tím và có thể trà trộn vào đám đông đang chạy trốn. “Đem mẹ nó con bé ra khỏi đây ngay lập tức!”
“Thưa ngài, còn ngài thì sao—”
“Đi ngay!”
Cậu ta không lãng phí thời gian nữa, mà vác con bé lên và hòa mình vào những người còn lại đang chạy trốn. Một cơn gió đến không đúng lúc thổi xoáy làn khói đi, đẩy nó bay khỏi chỗ quán bar đổ nát này và lùa xuống con phố theo sau đám người chạy trốn.
Tôi chậm rãi dừng lại, và cơn đau trong vài phút trước giờ ập lên người tôi. Tôi nhận ra rằng da mình bị đen và phồng rộp khắp người, và rỉ máu những chỗ nứt ra vì nóng. Tôi cảm thấy các khớp xương như có lửa đốt, và mọi cơ bắp đều đang kêu lên mệt mỏi.
Một cơn nhức âm ỉ đang lan dần lên đầu tôi. Rút bình rượu ra khỏi vỏ đeo ở hông, tôi quay lại và nhìn lên con mụ retainer đó lần nữa. Ả ta phóng một quả tên lửa dùng năng lượng tối vào cửa sổ của một tòa nhà gần đó, và toàn bộ tầng trên tòa nhà đó phát nổ. Vụ nổ hất các mảnh vỡ rơi rào rào xuống đường như cơn mưa đá chết người, hất xuống đầu những người vô can đang giẫm đạp nhau bỏ chạy.
Tôi dốc ngược bình lên, uống cạn đến giọt cuối cùng rồi ném xuống đất.
Tôi hét lên: “Đủ rồi!” Nếu tôi thu hút sự chú ý của con mụ này trở lại chỗ tôi, thì lũ pháp sư trung thành, ngốc nghếch đủ độ ngu nãy giờ bắn các đòn vào ả này có thể chạy trốn được. “Tao ở ngay đây này, con bù nhìn kia. Tao mới là người mày muốn!”
Đầu ả từ từ quay lại khi ả tìm tôi trên phố. Đám đông đã đi qua tôi, và chỉ những người di chuyển chậm vì bị thương hoặc đang kéo theo những người bị thương là còn ở gần đây. Những luồng khói bốc lên chỗ này chỗ kia, che khuất một phần con đường, nhưng không che khuất tôi.
Tiếng bước chân leng keng nặng nề đang di chuyển đúng lúc này đột nhiên trở nên rõ ràng dễ nghe hơn những tiếng ồn khác, và tôi quay lại. Ở sau làn khói và chỗ tối, lực lượng binh lính trung thành của bọn Vritra đang tiến đến. Thật nhanh chóng, tôi dò qua số tù nhân của chúng. Chúng bắt được vài người, chủ yếu là những người mặc đồng phục màu tím, một vài người trong số những kẻ bị bắt thực sự là thành viên trong mạng lưới do thám của tôi, nhưng lão Ector và cô bé Enola không nằm trong số họ. Tôi thở dài thườn thượt và giơ hai tay lên.
Con ả Mawar nói: “Cái đó là dành tặng Chúa tể Tối cao,” giọng ả như nước lạnh đổ lan dọc sống lưng tôi. “Trói hắn bằng cùm ức chế mana và treo hắn ở đâu đó khổ sở một tý. Ta chưa xong việc ở đây đâu.” Sau đó, xem tôi như thể chẳng là mối bận tâm xíu xiu nào với ả, ả ta quay đi và bay lững lờ về phía một tòa nhà khác, chỗ các chú phép ban nãy bắn ra từ đó.
Một bàn tay mạnh mẽ chụp lấy vai tôi trong khi một chiếc ủng bọc thép gạt chân tôi té xuống đất. Tôi bị đè mạnh xuống mặt đường rải đá cuội. Hai cánh tay tôi bị kéo mạnh ra sau lưng, và cái còng bằng thép lạnh ngắt cặp quanh cổ tay. Khi tôi thậm chí không thể cảm nhận được tý tác động nào từ việc ức chế mana thì tôi nhận ra mana trong lõi của mình đã bị rút đến sát mức trống rỗng cỡ nào.
Một phụ nữ nói: “Cứ để ta lo cái đống cứt tay mơ này,”. Một ai đó, mà tôi cho là cùng một người phụ nữ vừa lên tiếng, giật cái còng làm tôi bị lôi ra sau một cách đầy đau đớn. “Tiếp tục tìm kiếm những tên khác, cái bọn mà thằng này đã hẹn gặp. Chúng không thể đi xa được.”
Những tên lính khác tránh sang một bên khi cô ta dẫn tôi đi ngang qua họ. Từ khung cửa ra vào của một cửa hàng gần đó ẩn trong bóng tối, hình ảnh người chỉ huy trước đây của tôi đang lắc đầu, vẻ thất vọng của cô ấy hiện ra khá rõ mặc cho bóng tối, khói bụi và khoảng cách xa xôi giữa tôi và chỗ cô ta hiện ra.
“Không chắc bọn mày nghĩ sẽ moi được gì từ tao,” tôi lầm bầm khi chúng tôi di chuyển ra một chỗ rộng rãi, xa khỏi những người còn lại. Mí mắt tôi nặng trĩu cứ cố ép mình nhắm lại, và tôi rất muốn nốc cạn một chai rượu gì đó đắng và nặng đô trước khi chìm vào cơn hôn mê sâu và say mèm. “Tao chỉ là một gã mạo hiểm giả vô dụng, già cỗi.”
Mặt sau cái găng tay bằng thép đập mạnh vào tai tôi, khiến thế giới trong mắt tôi nghiêng hẳn sang một bên. “Im nào.”
Cơn đau từ cú đánh chỉ hơi nhói hơn một chút xíu so với cả chuỗi đau đớn trên người hiện giờ vốn đang kêu gào tôi chú ý đến, nhưng âm giọng từ người phụ nữ này đã gợi lên sự quan tâm ở tôi. Nó quen thuộc đến lạ lùng, nhưng tôi không thể nhớ đã nghe ở đâu, và chuyện như thế hiếm khi xảy ra với tôi.
Hơi quay lại, tôi bắt gặp khuôn mặt nhìn nghiêng khá nổi bật của cô ta. Những chiếc sừng mọc ra từ trán cong ngược ra sau mái tóc màu xanh đen được túm lại và buộc chặt thành kiểu đuôi ngựa trông chỉn chu. Đôi mắt màu đỏ tía của cô ấy hướng về phía tôi, và cô ta nhe răng ra. “Muốn thêm cái bạt tai nữa không?”
“Quý cô Maylis từ Thượng huyết tộc Tremblay. Điều gì đã khiến một thiếu nữ đáng yêu như cô đến cái quán bar lụp xụp như thế này?”
Cô ấy cúi xuống, gần đủ để tôi có thể cảm nhận được môi cô ta áp vào tai tôi. “Nếu ông muốn một trong hai ta thoát ra khỏi đây mà còn sống, thì tôi thực sự cần ông im cái mồm lại.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
-
1.
⤴︎
Nhiều bạn thắc mắc không biết trong các novel/game bối cảnh fantasy kiểu phương tây thì (tia) tua rua (tên gọi tiếng Anh là ‘tendrils’) là gì thì hãy xem các tia trắng dưới này để dễ hình dung. Bước hình dưới đây mình copy từ Arch Angel trong series game Diablo là minh họa rõ ràng nhất về cách hình dung cụm từ “tua rua” trong đầu người phương tây. Còn màu thì tùy mô tả novel mà bạn tự tô vào nhờ tưởng tượng của bản thân. Hình minh họa thứ hai về tendrils: - 2. Tóm tắt: Alaric hẹn gặp nhóm thượng huyết tộc tại một quán rượu để bàn về mệnh lệnh từ Seris thì bị retainer Mawar mai phục, đánh nhau sơ sơ, tử nạn vài người và Alaric bị bắt rồi được Maylis tới cứu.
- 3. Chap này dưới pov của Alaric nên sẽ có ảo ảnh khá nhiều của một người say rượu lẫn chấn thương tâm lý.
- 4. Ver.1: Jan-20th-2023; ver.2: Feb-5th (cập nhật hình official)
- 5. Chap vừa khó vừa dài nên donate ủng hộ mình đi các bạn 😣