Bước tiếp
Tên gốc: "Chapter 383: Moving on"
GÓC NHÌN CỦA ARTHUR
Có quá nhiều việc phải làm sau cuộc tấn công của đám Alacrya. Với việc khu tị nạn của người djinn bị lộ, giờ nó không còn an toàn nữa. Bằng cách nào đó, chúng tôi phải di chuyển vài trăm người qua sa mạc Darvish, giữ cho họ an toàn trước cả tụi Alacrya lẫn các yếu tố bất ngờ có thể xảy ra.
(Người dịch: bản gốc là “With the djinn sanctuary exposed”, cụm từ ‘sanctuary’ trong từ điển có hai nghĩa: một là khu thánh địa (từ này mang nghĩa có yếu tố tôn giáo), hai là khu tị nạn. Rất rõ ràng, với nhóm Virion ở đây thì nó xem như khu tị nạn từ một tàn tích cổ của người Djinn, còn với người Djinn thì (có lẽ chăng?) là khu thánh địa? Đây có thể là dụng ý của tác giả khi đặt một cái tên nhưng hai ý nghĩa)
Trong khi mọi người tiếp tục đổ ra khỏi các đường hầm, ban lãnh đạo tập hợp bên kia suối gần nơi tôi đã chiến đấu với lực lượng Alacrya. Chị Varay bay lên và chui qua các lỗ trên trần nhà để trinh sát trước trong khi những người còn lại của chúng tôi thảo luận về bước tiếp theo sẽ là gì.
“Đi về thành phố Xyrus thì có lý hơn,” Quý bà Astera nói. Bà ấy dựa lưng vào chiếc ghế tạo ra bằng đất mềm, đang xoa bóp phần chân cụt của mình, cái chân giả bị hỏng vứt trên mặt đất gần đấy. “Chúng ta có thể phân tán những người không phải chiến binh vào các ngôi làng xung quanh biên giới phía nam vùng Sapin. Nếu chúng ta có thể đến được Thành phố Blackbend, Tướng Arthur có thể dễ dàng đưa chúng ta đến một căn phòng dịch chuyển tức thời.”
Người lính già nở một nụ cười nhếch mép lạnh lùng khi bà ta đế thêm, “Sau đó, chúng ta chỉ tung cậu ấy vào lực lượng lính canh trong thành phố đó. Nó sẽ là của chúng ta trong một đêm.”
Có vài tiếng lẩm bẩm có vẻ ủng hộ ý tưởng này, nhưng anh Hornfels Earthborn đã xen vào nhanh chóng. “Biên giới vùng Sapin xa gấp đôi thành phố thủ phủ ở vùng Darv và không có bất kỳ hệ thống đường hầm nào xa về phía bắc. Thêm vào đó, chúng ta sẽ bỏ rơi dân thường đã gửi lại các làng nếu bọn Alacrya truy đuổi họ sau khi chúng ta đi khỏi.”
“Nhưng chắc chắn tụi nó sẽ không lãng phí thời gian của mình, phải không?” thành viên hội đồng yêu tinh, chị Saria, nhẹ nhàng hỏi. “Người Alacrya gần như chắc chắn sẽ theo đuổi lực lượng mạnh hơn.”
Quý bà Astera ra hiệu đồng ý với chị Saria, nhưng đang nhìn những người lùn. “Chính xác. Thêm vào đó, chúng ta có thể tin tưởng người dân ở thành phố Xyrus—”
“Bà nói thế là ngụ ý quái gì ở đây?” Anh Skarn Earthborn, người anh em của anh Hornfels, gầm gừ.
Anh Hornfels chặn tay vào ngực Skarn, đẩy anh kia lùi lại. “Ý gì thì rõ rồi, nhưng bà đã nhầm, thưa Quý bà Astera. Những người lùn sẽ—”
Một giọng mảnh, nghe như giọng trẻ con khiến tất cả những người khác im lặng khi có luồng sát khí nặng nề, bực bội áp lên những người đang có mặt. “Những người lùn đã phải chịu đựng một số kẻ lãnh đạo rất tồi tệ, và bị nhồi sọ bằng những tuyên truyền liên tục kể từ trước khi chiến tranh bắt đầu.” Mica dừng lại, con mắt bằng đá quý của cô ấy lấp lánh khi nhìn chằm chằm xung quanh. “Nhưng người dân vùng Darv không độc ác hay xấu xa, và Mica… và tôi biết họ đã bắt đầu nhìn thấu những lời nói dối của lũ Vritra.”
Quý bà Astera gật đầu một cách tôn trọng. “Tôi hiểu điều cô nói, Lance à. Tuy nhiên, chúng ta nên nghe ý kiến từ mọi người.” Bà ấy nhìn qua anh Bairon và cô Helen, những người hầu như im lặng. Còn ông Virion khẳng định ông ấy cần tìm kiếm thứ gì đó và cáo lỗi không tham gia từ trước khi cuộc họp bắt đầu. “Những người còn lại có muốn nêu quan điểm gì không?”
Anh Bairon nói: “Người dân ở thành phố Xyrus có thể không đáng tin như bà hi vọng đâu,” giọng điệu có chút cay đắng kiểu bị kìm nén. “Nếu các tướng như Arthur và Mica tin rằng những người lùn sẽ hợp tác với chúng ta, thì tôi sẽ đứng về phía các Lance.”
Cô Helen nhún vai. “Dù đi đâu thì chúng ta cũng phải chiến đấu cả thôi. Nhóc Arthur sẽ đem lại cho chúng ta cơ hội chiến thắng tốt nhất, vì vậy nhóm Twin Horns sẽ ở cạnh cậu ấy.”
Cô ấy nhìn tôi với một sự pha trộn giữa niềm tự hào mãnh liệt và sự kính trọng khiến tôi nhớ đến cha mình, và một cảm giác căng thẳng nhưng ấm áp trào từ ngực lên cổ tôi.
‘Nhìn chàng trở nên ủy mị quá. Bị kẻ thù bao vây quá lâu đã khiến chàng…’
Chắc cậu đang chán lắm phải không, tôi khơi ra giùm người bạn đồng hành vô hình của mình. Nếu cậu rảnh đến mức ngồi đây thuyết trình cho cảm xúc của tôi như xem phim thì đi mà giúp mẹ tôi còn hơn.
‘Ờmm. Dù sao thì bà ấy cũng là người bạn đồng hành tốt hơn cậu,’ Regis suy nghĩ trong đầu tôi tương đương với tiếng khịt mũi trước khi nhảy ra khỏi người tôi và lết về phía thị trấn.
Một chuỗi điệp khúc của tiếng thở hổn hển và tiếng hét ngắt quãng từ chị Saria trước sự xuất hiện đột ngột của cậu ta, nhưng sau đó nó im lặng trở lại khi cả nhóm nhìn cậu ta búng người nhảy qua con suối bị tắc dòng chảy.
Mọi người miễn cưỡng quay lại cuộc họp khi Quý bà Astera bắt đầu vật lộn tìm cách đứng dậy trên đôi chân mình, cố gắng hết sức để che giấu vẻ mặt cau có. Anh Hornfels nắm lấy cánh tay của bà ấy để giữ cho bà ta đứng cố định trong khi anh ta niệm phép tạo ra một bộ phận giả đơn giản bằng đá quanh chân cô. Tôi rất vui khi thấy rằng, bất chấp những bất đồng mà họ có thể có về cách thức hành động khác nhau giữa chúng ta, họ vẫn đối xử với nhau một cách tôn trọng.
Tôi nói: “Chúng ta nên rời đi ngay lập tức,” nhìn thẳng vào ánh nắng vẫn chiếu vào từ các vết nứt trên trần hang. “Tôi đã mất cảnh giác với họ vừa mới lúc nãy, nhưng chúng ta sẽ không muốn cho người Alacrya thêm thời gian để tập hợp lại và tấn công lần nữa đâu.”
“Tôi khuyên cậu nên cho những người này một chút thời gian,” Astera trả lời, phản bác lại đề nghị của tôi với chính bà ấy. “Vừa để nghỉ ngơi, vừa để thu thập những gì còn sót lại từ đồ đạc của họ. Và chúng tôi cũng cần chuẩn bị các vị trí phòng thủ, vạch ra đường sẽ đi, niệm phép tạo thành phương tiện di chuyển cho những người không thể đi bộ.”
Tôi bắt gặp ánh mắt cứng rắn của bà ấy trong chốc lát, rồi gật đầu.
“Thế có vậy thôi à?” anh Skarn Earthborn nói, tập trung vào tôi. “Chỉ nói là, ‘Cuộc họp kết thúc rồi, tất cả hãy di tản đến Vildorial’? Không chia sẻ gì hết về việc cậu đẩy lùi cả trăm binh lính Alacrya lại sa mạc bằng cách nào à?” anh Skarn vung tay lên trời tỏ vẻ thắc mắc và nhìn chằm chằm vào Mica. “Vậy thì chúng ta ở đây làm quái gì nhỉ? Nếu cậu trai này có thể đè bẹp cả một đạo quân và mấy thằng giống bọn Asura, thì các Lance làm gì hả, em họ? Tôi chỉ m…” anh Skarn đột ngột dừng lại, khạc một bãi nước miếng vào mấy hòn đá dưới đất trước khi bỏ đi.
Anh Hornfels nhún vai xin lỗi cả nhóm rồi đi theo cậu em mình.
“Anh ấy nói có lý,” anh Bairon cau mày nói với tôi. Có một cảm xúc phức tạp trong biểu hiện của anh ấy, một điều gì đó vốn tồn tại đang bộc phát từ gốc rễ sâu xa nhất trong ý thức về giá trị bản thân anh ta. “Làm thế nào mà bất kỳ ai trong đội Lance chúng ta có thể giúp nổi cậu hả, Arthur?”
Chị Mica nhìn xuống đất và ngó lơ, tránh né ánh mắt của tôi. Những người khác thì làm ngược lại, nhìn chằm chằm vào tôi một cách thèm thuồng, mong muốn nhận được sự bảo vệ và hy vọng đến từ sự hiện diện của tôi đối với họ.
“Cuộc chiến này chưa kết thúc đâu,” tôi nói đơn giản. “Những người lính Alacrya – thậm chí là các retainer và Scythe – họ không phải là mối đe dọa mà lục địa Dicathen này phải chuẩn bị.” Môi tôi nhếch lên thành một nụ cười gượng gạo. “Anh Bairon à, thằng Taci chỉ là sự khởi đầu thôi. Bây giờ thì chính các vị thần mới là kẻ thù của chúng ta. Và… dù mọi người có tưởng tượng ra cái gì đi chăng nữa, thì tôi cũng không thể đánh nhau với bọn này một mình.”
Anh Bairon nghiến chặt hàm và một cơn chấn động chạy dọc theo cơ cổ. Vừa nghiến chặt răng, anh ấy vừa nói: “Vậy thì chúng ta phải tìm cách nào đó để phát triển mạnh mẽ hơn.”
“Ừ.” Tác động lên cổ tự không gian đa chiều của mình, tôi rút cây thương dài của Taci ra và ném nó cho anh Bairon. “Sự khởi đầu ở đây này.”
Anh ta chộp lấy nó trên không trung, sau đó dường như nhận ra thứ mình đang cầm và suýt đánh rơi nó.
Một lúc sau anh ta nói: “Tôi không muốn thứ vũ khí đã giết Aya,” xoay tay cầm về phía tôi và đưa nó ra để tôi lấy lại.
“Đừng có cứng đầu như thế,” Chị Mica càu nhàu, mặc dù chị ta không hề giấu vẻ ghê tởm khi nhìn ngọn giáo đỏ tươi. “Đó là một vũ khí mạnh mẽ, và không có cách nào khác để tỏ lòng tôn kính dành cho chị Aya hay hơn là dùng nó để lấy mạng thêm vài thằng asura nữa.”
Chị ấy với tay ra và búng đầu ngọn giáo, tạo ra một leng keng trong vắt như gõ vào bạc. Sau đó, chị ấy bỏ đi theo hai người anh em họ của mình, có cảm xúc tuyệt vọng và thịnh nộ ở chị, một cảm giác gần như một lớp lửa cháy xung quanh thân mình.
Nắm tay của anh Bairon siết chặt quanh cán cầm ngọn giáo. Chỉ bằng việc cầm vũ khí đó, anh Lance này dường như đã mạnh hơn, cảm thấy thực tế hơn. “Cảm ơn, Arthur.”
Tôi gật đầu, và anh Bairon quay gót bước đi, kết thúc hiệu quả những gì còn lại sau buổi họp của chúng tôi. Chị Saria khẽ cúi chào tôi, sau đó nắm lấy cánh tay của bà Astera khi cả hai bắt đầu chậm chạp quay trở lại thị trấn.
“Con ổn không, nhóc?”
Tôi nhìn lên và nhận ra cô Helen đang quan sát mình. Tôi hỏi: “Nhóc hả??” môi nhếch lên thích thú.
Cô ấy bắt chước biểu cảm của tôi. “Trước đây cô còn thấy mẹ con chùi đít cho con. Con sẽ luôn là một đứa nhóc trong lòng cô.”
Tôi xoa gáy, cười khúc khích. “Chà, nghĩ cũng đúng.”
Hai chúng tôi bắt đầu quay lại khu tị nạn, nơi mọi người đang hoạt động rộn ràng để tìm mọi món đồ họ có thể thu lại từ đống đổ nát. Mặc dù Ellie muốn đi với tôi, nhưng tôi đã yêu cầu con bé để mắt đến Mẹ, vốn đã rất suy nhược sau rất nhiều lần chữa trị cho người khác. Nhưng vẫn chưa có thời gian cho mẹ nghỉ ngơi.
“Con ổn cả, cô biết mà,” tôi nói khi băng qua con suối đổ nát bị tắc dòng chảy. “Chỉ là… cảm thấy mất kiên nhẫn, con đoán vậy. Nhưng con rất vui khi có thể trở lại. Để trở về…” Tôi tiếp tục nói, không chắc mình có thể nói với cô ấy thêm bao nhiêu.
“Nhà à?” Helen điền nốt câu giùm cho tôi. Có sự tò mò ẩn chứa trong giọng điệu của cô ấy, một câu hỏi không trả lời được gói gọn trong một từ duy nhất đó.
Tôi gật đầu, và chúng tôi bước đi trong im lặng khi tiếng ồn ào và những chuyển động vội vã của những người đang soạn đồ đặc bao trùm chúng tôi.
Mắt cá chân của một người đàn ông quẹt phải một hòn đá nhỏ và vấp ngã dưới sức nặng của mớ hành lý trên người khi đi ngang qua, nhưng tôi đã đỡ được anh ấy và giúp anh đứng thẳng lên.
Một đứa trẻ đang ngồi khóc trên một bức tường sụp đổ tay siết chặt một con quái mana nhồi bông đồ chơi trông nhăn nheo và nhàu nát trong khi người mẹ mệt mỏi, mặt đỏ bừng vật lộn để quấn đồ đạc của họ trong một chiếc chăn cũ.
Một bà già đào bới như điên rồ trước đống đổ nát của một ngôi nhà chỉ để lát sau té ngửa ra phía sau với một mảnh giấy da nhàu nhĩ trên tay. Bà thận trọng ôm tờ giấy vào ngực và khóc.
“Họ đã mất tất cả. Thêm lần nữa,” Cô Helen nói nhẹ nhàng. Rồi cô ấy hắng giọng và nheo mắt nhìn xuống đất, có vẻ xấu hổ.
Tôi ước mình có thể làm được nhiều hơn thế, nhưng dù có dùng mọi sức mạnh của bản thân, tôi không thể sử dụng chiêu Aroa’s Requiem để hàn gắn cõi lòng tan nát của họ hoặc chiêu God Step để kéo họ ra khỏi sự sợ hãi và nỗi buồn. Cuộc sống của họ sẽ không bao giờ được như trước và mặc dù những vết thương sẽ lành theo thời gian, nhưng sẽ luôn còn những nỗi đau mất mát, những vết sẹo nhắc nhở họ về mọi thứ họ đã bị tước đoạt.
“Cô rất tiếc,” cô Helen nói, đưa tay ra nắm lấy cổ tay tôi. “Nào. Chúng ta nên dành chút thời gian đúng nghĩa để thương tiếc cho người đã khuất. Với sự tĩnh tâm, chúng ta có thể thẳng lưng và giúp những người này mang gánh nặng của họ.”
Cô ấy dẫn tôi đến xa xa chỗ rìa hang động. Hơi thở tôi như tắc lại khi nhìn xuống một ngôi mộ lớn tạo từ tinh thể. Ngay cả trong ánh sáng mờ ảo của hang động, nó vẫn tỏa sáng với hai màu lam lục. Nổi lên ở giữa mộ là một cơ thể quen thuộc. Tay chị Aya đan chéo qua vết thương ở bụng, không dễ che đi vết thương lớn như vậy. Đôi mắt chị nhắm nghiền, vẻ mặt nghỉ ngơi trong sự thanh thản.
Vài ngôi mộ nhỏ hơn – những phiến đá xám lạnh đơn giản – đã đặt quanh chỗ chị Aya nằm. Bên phải cô là một ngôi mộ bằng đá cẩm thạch với đầy dây leo và những bông hoa rực rỡ, nhưng lạc lõng đang mọc um tùm. Dòng chữ “Feyrith Ivsaar III” được khắc trên mặt đá. Bên dưới có dòng chữ nhỏ hơn, ghi rằng: “Sự thật quan trọng nhất được tìm ra là từ trong các nỗ lực tự thân của một con người.”
Tôi lướt ngón tay dọc theo các rãnh khắc của chữ cái, không chắc lắm về ý nghĩa của chúng. Cô Helen đang đi vào giữa hàng các ngôi mộ khác, chạm vào từng bia mộ trong chốc lát. Khi thấy tôi nhìn về phía mình, cô ấy cười buồn. “Feyrith và Albold, họ đã … à, em gái con có lẽ giải thích mọi việc giỏi hơn cô.”
“Cậu đã làm mọi thứ rất tốt rồi, bạn cũ à…” Tôi nói với tảng đá lạnh, những lời nói này như thể vang vọng từ chính kiếp trước của tôi.
Đi đến ngôi mộ chị Aya, tôi đặt tay lên nóc mộ, nhìn xuống khuôn mặt thanh thản của chị Lance người elf này. Tôi không cần phải có khả năng cảm nhận mana để hiểu các Lance khác đã nỗ lực cùng nhau như thế nào để tạo ra nơi an nghỉ cho chị Aya. Những ánh sáng rực rỡ, như những tia lửa đóng băng, lấp lánh bên trong khối pha lê, và thân thể chị nghỉ ngơi trên một cái ổ được tô vẽ bằng tổ hợp các hoa văn băng giá có kẽ nứt.
Nhắm mắt lại, tôi nhẹ nhàng truyền aether vào bên trong mộ. Nó len lỏi dọc theo các rìa sắc cạnh và các đường viền đóng băng, lan vào các rãnh vân tinh tế bên trong, bám lấy các tia lửa đóng băng và lấp đầy các hoa văn hình kẽ nứt.
Cô Helen nín thở, và tôi mở mắt ra. Một màu tím sáng óng ánh sáng hòa quyện với hai màu lam lục, dường như di chuyển liên tục bên trong khối pha lê tinh thể, xoáy và thổi như gió chuyển động chậm.
“Ngôi mộ này sẽ là lời di chúc trường tồn cho tất cả những gì chị đã làm được,” tôi nhẹ nhàng nói. “Bởi vì đó là những thứ mà ngay cả cái chết cũng không thể cướp đi của chị, Aya à.”
***
Boo càu nhàu như thể cáu kỉnh khi hất cát ra khỏi bộ lông, xốc lại Ellie trên lưng. Con bé vuốt ve cổ cậu ta. “Sẽ không sao đâu, anh bạn à. Giờ không còn quá xa nữa đâu.”
Một làn gió nhẹ thổi liên tục vào mặt chúng tôi trong vài giờ qua, và giống như Boo, mọi người đều có cát bám vào, khiến nó giống như một lớp như ngụy trang, giúp trộn lẫn đoàn người dài của chúng tôi vào môi trường xung quanh.
Hàng trăm người đi nương nhờ vào các khe hở giữa các bóng râm từ những cồn cát. Chúng có màu đen và nằm ở chỗ trăng không thể chiếu tới trong sa mạc này, với ánh sáng duy nhất chiếu vào là từ những ngôi sao sáng trên đầu. Chúng tôi không mang theo đèn lồng hay các món đồ tạo tác có khả năng chiếu sáng, những thứ có thể nhìn thấy khi đứng cách hàng dặm trên các sa mạc trống ở trung tâm vùng Darv.
Regis và tôi đi cùng Ellie, Boo, và mẹ tôi, phía gần đầu đoàn người.
Chị Varay bảo vệ hậu phương của phòng tuyến, trong khi anh Bairon và các anh em nhà Earthborn dẫn đường chúng tôi ở phía trước, và Mica bay phía trước để dò tìm tuyến đường. Nếu ước tính của hai anh Hornfels và Skarn là chính xác, chúng tôi đang tiến gần đến đường hầm ngoài cùng sẽ dẫn chúng tôi đến thành phố Vildorial.
“Và thế là tôi hiện ra, vào ‘quy trình’ xử lý mặt lưng của cái con đó,” Regis nói. Ellie bật cười, và Mẹ tôi thì nhướng lên lông mày lên tỏ vẻ không chắc chắn. “Nhưng cuối cùng thì tôi đã làm cho mọi thứ tốt hơn. À, đại khái là Arthur đã giúp nữa.”
“Nói nữa đi!” Ellie thở khò khè khi cười khúc khích. “Tôi muốn nghe mọi thứ.”
“Cô biết đấy, cậu Công chúa đây khá nóng tính. Điều đó gần như khiến chúng tôi gặp rắc rối một vài lần, chẳng hạn như khi—”
Mẹ vấp ngã vì cát làm trượt chân, và bà gần như không thể tự đứng lên được.
“Tôi không sao,” cô ấy nói trước khi có ai đó hỏi. “Chỉ khiến tôi — này!”
Khi mẹ tôi đang nói, Regis trượt tới bên cạnh bà và hất mẹ tôi văng lên trời và rơi xuống lưng cậu ta. Cảnh tượng bà mẹ của tôi giật mình và sợ hãi đến mức cứng người như một bức tượng trên lưng Regis hẳn sẽ rất hài hước nếu lúc nãy tôi cũng không bị ngạc nhiên như vậy.
“Ừm, Arthur ơi?” Đôi mắt mẹ mở to và hướng về phía tôi.
“Cậu ấy chỉ… cố gắng trở nên hữu ích thôi,” tôi nói, cố tạo liên hệ trong tâm trí hai chúng tôi. Vô cùng kì quặc thay, Regis chỉ giữ im lặng, đôi mắt sáng của cậu ta nhìn thẳng phía trước có vẻ nghiêm túc.
Ngồi cứng đờ người, mẹ tôi quấn mấy ngón tay vào bộ lông của nó, ngọn lửa tím trên lưng Regis bùng lên và bắn ra xung quanh bờm một cách cẩn thận.
Ellie lấy tay che miệng, nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng cười khúc khích bị kìm nén nửa chừng khi con bé đứng bên cạnh mẹ và liếc qua trao tôi cái nhìn kiểu như thể cái-gì-đang-xảy-ra-ở-đây-thế.
Chúng tôi tiếp tục im lặng trong vài phút, cho đến khi có tiếng gọi, “Alice ơi?” từ đâu đó ở phía sau. Một vài vết thương chưa lành bị nhiễm trùng, và bởi thế, cậu ta hếch mõm lên tỏ vẻ vương giả, rồi Regis chở mẹ tôi phi xuống giữa hàng để giúp đỡ.
Mặt trời vừa mới chiếu sáng đường chân trời phía đông, và Ellie trông còn nhỏ hơn cái bóng của chính mình khi đang ngồi trên lưng thú khế ước của con bé. Tuy nhiên, tôi có thể nhận ra từ đôi vai gù và cái đầu cúi gằm cho thấy rằng có điều gì đó đang làm phiền lòng con bé.
Trong vài giờ qua, Regis tiếp tục kể mấy câu chuyện vui vẻ, và đổi lại thì Ellie đã kể cho chúng tôi nghe những gì nó biết về Boo và sự luyện tập con bé đã làm khi tôi vắng mặt, nhưng chủ yếu là con bé chăm chú lắng nghe, háo hức muốn biết mọi thứ về khoảng thời gian tôi đi xa, đặc biệt là đoạn trong Khu tàn tích. Con bé quả là một người lắng nghe yên lặng và đầy nhẫn nại, thi thoảng hỏi một vài câu nhưng chủ yếu để Regis kể – điều mà cậu ta có thể huyên thuyên trong suốt thời gian dài mà không cần khuyến khích.
“Anh ơi?” Ellie hỏi sau vài phút chúng tôi im lặng.
Tôi nhìn con bé đầy hào hứng chờ câu hỏi.
Nó do dự, rồi dường như cố làm bản thân trở nên cứng rắn. “Tại sao anh không về nhà sớm hơn?”
Ánh mắt của tôi dừng lại ở tấm lưng rộng của chú Durden, đang đeo một vài cái túi nặng. Người chú thuộc nhóm pháp sư conjurer trông to lớn này đang đi không xa phía trước chúng tôi, trong khi những người còn lại của nhóm Twin Horns rải khắp đoàn người, liên tục đề phòng mọi nguy hiểm đang đến gần.
(Người dịch: emitter như mẹ Art hay conjurer là những từ thuộc phân loại nhóm pháp sư của lục địa Dicathen)
Mặc dù chưa đến một ngày kể từ khi tôi trở lại lục địa Dicathen, nhưng tôi thấy mình không thể cảm nhận được mana rõ ràng được. Tôi hoàn toàn phụ thuộc vào các pháp sư khác để báo hiệu trước cho chúng tôi về kẻ thù đang đến gần. Và, không giống như các Lance khác, tôi thậm chí còn không thể bay để do thám. Đó vốn đã là một hạn chế khi tôi cần đi lại ở Alacrya, nhưng bây giờ, còn nhiều sinh mạng hơn riêng tôi đang bị đe dọa…
Cuối cùng, tôi cũng lên tiếng. “Anh đã muốn quay lại sớm hơn… ngay khi anh nhận ra mình đang ở đâu, nhưng… anh cũng biết là nếu quay lại quá sớm, nếu anh không dành thời gian để rèn luyện mạnh mẽ trở lại… thì những thảm họa tương tự sẽ xảy ra lại lần nữa. Lần này sẽ không có ai cứu anh hết, và rồi anh sẽ không bảo vệ được em và mẹ.”
Cơ thể Ellie chùng xuống kiểu buồn chán và tôi nhanh chóng nói đế thêm, “Nhưng anh có để mắt đến em.”
Người con bé rạng rỡ trở lại nhanh như khi nãy mềm xèo vì thất vọng. “Ý anh là sao?”
Tôi rút thánh tích quan sát của người djinn và cho con bé xem, xoay nó trên tay để ánh sáng hồng từ hàng chân trời chiếu vào nhiều đường viền nhỏ của nó. “Nó sử dụng aether để hoạt động. Nó làm anh có thể thấy nhìn thấy một ai đó, cho dù ở cách đó rất xa. Tuy nhiên, nó chỉ có tác dụng với em và mẹ thôi.”
“Nghe… gớm quá,” Ellie nói, khuôn mặt cau mày nhăn nhó.
Tôi cười khúc khích và nhét thánh tích lại vào cổ tự. “Regis đã nói em sẽ nói y chang thế.” Tôi ngập ngừng. “Tuy nhiên, anh xin lỗi, El à. Vì anh đã bỏ đi quá lâu.”
Con bé nhìn tôi mà như thể không nhìn, ánh mắt thiếu tập trung, rồi nói, “Em hiểu. Và… em nghĩ em cho qua chuyện đó, nhưng…”
Tôi nhướng mày, không thể tỏ vẻ cau mày trên khuôn mặt mình. “Nhưng sao?”
“Về nhà mà không mang quà cho em à? Điều đó không thể tha thứ được.” Con bé khoanh tay ra vẻ cáu kỉnh, giống y như con bé từng làm lúc còn là đứa trẻ, và lè lưỡi ra với tôi.
Cúi xuống, tôi xúc một nắm cát ném và cười khúc khích với con bé. Nó hét lên và nghiêng người về phía bên kia của Boo, cố gắng sử dụng cậu ta như một lá chắn, nhưng không đủ nhanh. Giống như Boo đã làm, con nhỏ lắc mình để hất cát khỏi tóc và trừng mắt nhìn tôi.
“Anh biết đấy, em xém quên mất anh khó chịu như thế nào.”
Tôi nở nụ cười toe toét nhất có thể với con bé. “Bộ đó không phải là những gì anh lớn sẽ dành cho em gái à?”
Nhỏ ta trợn tròn mắt, há mồm muốn đáp lại, nhưng lại sững sờ một hồi, tập trung nhìn lên trời, và khoảnh khắc vui vẻ trong chốc lát của chúng tôi cũng đến hồi kết thúc.
Tôi dõi theo ánh mắt của con bé về hướng chị Mica, đang bay lững lờ về phía chúng tôi. “Chúng ta gần đến đó chưa?”
Chị ta vẫy tay và một bệ đứng bằng đá nhô lên từ cát. “Chúng tôi đang bay phía trước để dò tìm lối vào.” Chị ấy nghiêng đầu về phía bệ đứng.
Tôi nở một nụ cười xin lỗi Ellie, phủi cát trên mặt Boo, rồi bước lên bệ đứng.
Mica quay đầu và tăng tốc về phía trước, và cái bệ cũng bay theo sau. Chúng tôi nhanh chóng bay vượt qua đoàn người, nhưng không đi quá xa. Mấy anh Hornfels, Skarn và Bairon đang đợi sẵn. Họ núp sau một khối đá màu be hình thù sắc nhọn trồi lên từ đỉnh đồi. Trong thung lũng phía dưới, một khe nứt tối om như tách đôi ra những làn sóng lăn tăn của sa mạc cát màu xám xịt: một trong những lối vào dẫn xuống các đường hầm chằng chịt như mạng nhện tạo nên vương quốc người lùn.
“Vậy kế hoạch là gì?” Tôi hỏi ngay khi chân tôi vừa chạm đất.
Anh Hornfels chỉ vào bóng tối. “Phía sau cánh cửa đó sẽ là đường hầm dài hàng dặm để thường dân ẩn náu, và ít nhiều là một đường dẫn thẳng tới thành phố Vildorial. Những cánh cổng nhỏ hơn này không bị canh phòng, chỉ được tuần tra một cách ngẫu nhiên, vì vậy, với một chút may mắn, chúng ta sẽ có thời gian để đưa mọi người vào bên trong mà không bị quấy rầy.”
“Sau đó, các cậu tấn công thành phố mạnh mạnh vào,” anh Skarn nói, nghe thậm chí còn gắt gỏng hơn bình thường.
“Ý cậu ấy là nhóm Lance.” Anh Bairon lên tiếng xác nhận. “Toàn bộ các pháp sư còn lại sẽ ở đây và đảm bảo mọi người trong đoàn được an toàn.”
Chỉ gửi bốn Lance vào thành phố Vildorial cho phép chúng tôi giữ một lực lượng chiến đấu vững chắc ở các đường hầm bên ngoài để đối phó với bất kỳ cuộc tuần tra ngẫu nhiên nào, mặc dù nhóm Twin Horns và các pháp sư khác có mặt trong đoàn tị nạn của chúng tôi sẽ không đủ sức để đánh bại một cuộc tấn công quy mô lớn từ lực lượng quân đội Alacrya.
“Và anh có chắc là mấy đường hầm nhỏ ngoài này sẽ không có lính canh?” Tôi hỏi.
“Không có đâu, sẽ không đứng canh xa đến mức này,” anh Hornfels đảm bảo với tôi. “Không đủ người lùn ở cả vùng Darv này để bảo vệ mọi vết nứt và kẽ hở.”
(Nguyên văn: “to guard every crack and crevice”, tác giả chơi chữ từ cụm thành ngữ quen thuộc trong tiếng Anh “every nook and cranny”)
“Ưu tiên ngay bây giờ là lôi hết đám tụi nó ra khỏi chốt phòng thủ ở thành phố,” Mica nói. “Cuộc đột kích vào thành phố Vildorial cần phải mạnh mẽ và nhanh chóng.”
Anh Skarn đang cau có khi vuốt vuốt bộ râu dài của mình. “Nếu những người lùn đứng chung chiến tuyến với tụi Alacrya, đó sẽ biến thành một cuộc tắm máu chết tiệt giữa những người anh em với nhau.”
Mica đập vào cánh tay người họ hàng mình. “Chúng ta sẽ không để điều đó xảy ra.”
Anh Skarn xoa xoa cánh tay và nhổ nước miếng xuống mặt cát. “Phải. Vậy thì. Tốt hơn là chúng ta đi thôi.”
Hai anh em quay ngược về phía đoàn người khi Mica, anh Bairon, và tôi đi xuống đồi về phía lối vào. Ngay trong bóng râm của khe núi nhỏ, một cánh cửa đá nặng nề áp sát tường.
Trước đây khi tôi lẻn vào vùng Darv trong cuộc chiến, để tìm kiếm bằng chứng rằng những người lùn đã phản bội Dicathen, tôi đã có thể vượt qua những ổ khóa ma thuật kỳ lạ với tuyệt kĩ Realmheart, nhưng nay với Mica ở bên cạnh, tôi không cần làm thế.
Cô ấy đặt tay vào chỗ trông giống như mấy cái đốm trên tảng đá, và tôi biết cô ấy đang giải phóng những chùm mana theo một kiểu mẫu cụ thể. Một lúc sau, cánh cửa bắt đầu mở toang.
Mắt tôi mất một lúc để thích nghi với bóng tôi, đó là khi tôi nhìn thấy năm người đàn ông đang ngồi quanh một cái bàn trong một căn phòng nhỏ được tạo ra từ việc khắc lõm vào tường đá cạnh đường hầm. Họ do dự trong vài giây, sau đó đứng dậy, khiến chiếc ghế đang ngồi đổ xuống đất.
Mica thực hiện nhanh một động tác ép tay xuống đất, và cả năm người đàn ông cùng chiếc bàn đổ sập xuống đất, bị ép bẹp dúm. Một trong số họ đã cố gắng phát ra một tia năng lượng xanh yếu ớt về phía chúng tôi, nhưng nó chỉ bùng phát vào bức tường đá của đường hầm, bị trường trọng lực của Mica kéo đi chệch hướng.
“Người Alacrya,” tôi chỉ ra, cố lưu ý rằng không có lính canh nào là người lùn.
Mica nghiến chặt hàm, và có một tiếng “rắc” ướt át từ xương người vang lên.
“Em nghĩ rằng lẽ ra sẽ không có lính canh?” Tôi hỏi, tiến lên để kiểm tra những gì còn xót lại.
“Cô có cảm thấy như tôi không?” Anh Bairon nhìn Mica hỏi.
Cô liếc nhìn xung quanh, hướng ánh mắt dõi theo một thứ gì đó vô hình xuyên qua phiến đá. Rồi mắt cô ấy mở to. “Đó là báo động. Chết tiệt thật.”
Cô ấy giơ một bàn tay lên, cổ tay và các ngón tay của cô ấy múa may giữa không gian như thể cô ấy đang điều khiển một số bộ phận máy móc phức tạp. Khi điều này dường như không hiệu quả, cô ấy nắm chặt tay, và tôi nghe thấy tiếng đá vỡ bên trong các bức tường của đường hầm.
“Xảo trá thật,” anh Bairon nói, nhanh chóng đi vào đường hầm. “Giả sử tín hiệu đó đã đến được thành phố, chúng ta không có thời gian để đợi tất cả mọi người đến xếp thành đội hình tấn công. Chúng ta phải đi ngay bây giờ.”
“Còn chị Varay thì sao?” Tôi hỏi, nhìn lại cánh cửa đi vào sa mạc.
“Chị ta sẽ đuổi kịp,” Mica quát lên, đã bay đi với tốc độ tối đa.
Anh Bairon định làm theo, rồi do dự. “Cậu có thể …?”
(Người dịch: ý Bairon là “cậu có thể rượt theo kịp hai đứa tôi bằng xe hăng cải hay không?”)
“Cứ đi đi!” Tôi thúc giục anh ấy, kích hoạt God Step phóng đến trước luôn cả hai bọn họ đang bay.
Những tia điện màu tím phóng ra khỏi người tôi gợn như chuỗi sóng tỏa ra trên những bức tường nhẵn của lối đi, và tôi bắt đầu chạy nước rút, đẩy aether vào các cơ của mình để theo kịp hai Lance đang bay, dù sao tốc độ của họ cũng bị hạn chế trong khu vực chật hẹp.
Cuộc hành trình dài hàng dặm làm chúng tôi tốn đến hai mươi phút, và chúng tôi thậm chí không chậm lại khi đến gần những cánh cổng đá khổng lồ đóng kín đường hầm dẫn vào thành phố Vildorial.
Một pháp sư Alacrya đeo khuyên ở mũi đang dựa vào mép rìa của một lỗ châu mai hình vuông nhỏ nhìn ra ngoài. Hắn chỉ kịp thời trợn mắt lên khi Mica đánh vào cổng. Tuy nhiên, thay vì phát nổ văng vào bên trong, cổng đá gợn sóng ra ngoài từ tâm là điểm va chạm, biến thành cát bắn tung tóe xuống sàn đường hầm. Vài người Alacrya đã đứng dọc theo một thành lũy phòng thủ chạy dọc phía sau cánh cổng, và tiếng la hét của họ đột ngột bị ngắt đứt khi họ bị cát nuốt chửng.
Chúng tôi chạy nhanh qua cái cổng mở tung trống trải dài hai mươi mét dẫn vào hang động khổng lồ của thành phố Vildorial. Một con đường rộng trải đá đỏ uốn cong xuống hai bên phải trái, nối với các tầng khác nhau của hang động.
Vài chục người lùn được bố trí dọc theo con đường này, lao vào các vị trí phòng thủ, hét lên báo động kèm theo tiếng ồn của phép phòng thủ được niệm.
Trên và dưới con đường, những ngôi nhà kiểu hang động được khoét sâu vào mặt ngoài của các bức tường, và vài cánh cửa mở ra khi dân cư bước ra để xem điều gì làm náo động.
Một tiếng reo hò cổ vũ vang lên từ gần đó.
Một phụ nữ người lùn, nắm tay giơ lên trong không trung, đang hét lên, “Đả đảo bọn Alacrya! Đả đảo gia tộc Vritra!” Một người đàn ông gần đó suỵt miệng để nhắc cô ta im lặng, nhưng cô ta chỉ đè mu bàn tay lên khuôn mặt đang sững sờ của ông ta và tiếp tục cổ vũ. Một vài người khác đã hùa theo.
Phép thuật và các vũ khí tạo từ phép thuật của người lùn rơi xuống, tiếng thép nặng nề vang lên từ những hòn đá và tiếng nổ của ma thuật đang mờ dần thì tràn ngập trong không gian xung quanh. Vẻ mặt vô cùng kinh ngạc hiện rõ trên khuôn mặt từng người lùn, nỗi kinh hoàng và cảm giác tội lỗi dâng trào khiến nét mặt họ như chấn động. Nước mắt bắt đầu trào ra từ đôi mắt ướt mở to, và từng người một, những người lính tộc người lùn khuỵu gối trước cây thương của họ.
Những người còn lại trong chúng tôi im lặng khi Mica quan sát mọi người. Chị nhăn mặt, đôi mắt ánh lên nỗi đau kéo dài khi chứng kiến người tộc mình phản bội Dicathen hết lần này đến lần khác. Nhưng, khi chị ấy lau giọt nước mắt bằng cách quẹt cánh tay qua mặt, nét mặt của chị ta dịu lại thành một nụ cười buồn.
Chị ta bay lên không trung, khiến bản thân trở nên dễ thấy hơn trong khi cũng có thể nhìn xuống những lính canh người lùn đang khiếp sợ. “Đầu tiên là lũ Greysunders và sau đó là nhà Rahdeas… chúng đã đầu độc tâm trí chúng ta bằng những lời nói dối màu hồng, hứa hẹn chúng ta ngang hàng với loài người và loài elf — không, vượt trội hơn họ. Nhưng trong suốt thời gian đó, chúng đã làm mọi thứ trong khả năng của mình để đảm bảo rằng vị thế của chúng được nâng lên trong khi người dân của chúng—là các người—vẫn sống trong tình trạng khốn khổ. Các người đã bị lừa dối! Bị phản bội. Người Alacrya chỉ lợi dụng các người, như công cụ, như gia súc.
“Kể từ trước khi cuộc chiến này bắt đầu, các nhà lãnh đạo của chúng ta đã âm mưu chống lại chúng ta, thuyết phục chúng ta chiến đấu chống lại các chủng tộc khác và chống lại chính giống loài chúng ta. Mica đây… Ý tôi là, tôi đây hiểu. Và… tôi tha thứ cho các người.”
Có một khoảnh khắc tĩnh tâm và im lặng khi tất cả những người lùn đang có mặt để nghe thông điệp này phải vật vã để tiếp thu nó. Chỉ sau một lúc sự tĩnh lặng này bị phá vỡ khi một hàng các pháp sư Alacrya xuất hiện từ phía trên, hành quân vòng qua một tháp đá hoa cương và đi xuống con đường uốn lượn hướng về phía chúng tôi, những chiếc khiên phép lơ lửng trước mặt họ.
Chị Mica niệm phép tạo ra chiếc búa bằng đá khổng lồ, và anh Bairon bay lơ lửng lên khỏi mặt đất, tia sét chói lọi xung quanh anh ta. Chị Varay bay phía sau chúng tôi, nhanh chóng tiếp thu tình hình chỉ bằng một cái liếc mắt trước khi hạ cánh bên cạnh chị Mica. Cả hai cùng gật đầu, và một luồng khí băng giá tỏa ra làm đóng băng mặt đất xung quanh chị Varay.
Một giọng nói ma thuật vang lên khắp thành phố. “Cảnh báo, mọi người lùn. Trở về nhà các người! Thành phố Vildorial đang bị tấn công. Trở về nhà các người!”
Khi giọng nói đó còn chưa kịp dừng, một mũi giáo năng lượng đỏ thẫm bắn ra từ những người lính đang tiếp cận chúng tôi. Nhưng nó không nhằm vào chúng tôi.
Tôi dùng God Step bước ra đứng vào đường bay của câu thần chú và phóng ra một vụ nổ aether nuốt chửng tia sáng trước khi nó kịp tấn công mục tiêu: là người phụ nữ đã cổ vũ khi chúng tôi đến. Sau một giây ngập ngừng vì sửng sốt, cô ta thở hổn hển và loạng choạng dựa lưng vào bức tường nhà mình.
Vẫn phủ trên mình tia sét màu tím, tôi di chuyển ra giữa con đường và tránh xa nhà của mọi người, để mắt đến lực lượng đang tiến tới. Có khoảng ba mươi nhóm chiến đấu, tất cả đều là đàn ông và phụ nữ can đảm, nhưng tôi vẫn thấy nhiều hơn vài ánh nhìn có vẻ sợ hãi run rẩy hiện lên trên gương mặt họ. Khó nói chắc, nhưng tôi nghĩ một số người ở đây thậm chí có thể đã đến khu tị nạn trong cuộc tấn công đó.
Phép thuật bắt đầu bay vèo vèo.
“Arthur!” Chị Varay hét lên, nhưng tôi đưa tay cản các Lance khác chuẩn bị giúp đỡ mình.
Tôi dồn mạnh lượng aether hết mức có thể ra thành một lớp lá chắn bao phủ ngoài lớp da, tôi cứ để phép thuật tấn công mình. Đất đá vỡ ra khi tiếp xúc nó, lửa lan ra và tắt dần, gió tản ra. Một vài phép thuật mạnh nhất đã phá vỡ lớp lá chắn, cắt hoặc đốt cháy người tôi, nhưng aether chạy ào ào khắp cơ thể, hợp lại quanh các vết thương, và tốc độ chữa lành vết thương của tôi còn nhanh hơn so với việc bị thương.
Sau một phút tấn công liên tục hoặc hơn, hỏa lực chậm lại, rồi dừng hoàn toàn.
Mặt đất xung quanh tôi đã bị nổ đen xì. Rìa xa của con đường xuất hiện một tiếng “rắc”đáng ngại, và vài mảng gạch lát nền lớn đổ sụp xuống tầng dưới của thành phố.
Hơi nước nhẹ và khói đen quyện quanh tôi, trôi lững lờ từ các hòn đá vỡ vụn, che khuất tôi trong sương mù.
Tôi bước tới trước.
Một sự im lặng nặng nề, đầy tính đe dọa treo lơ lửng trong không gian như một cơn bão bao trùm thành phố. Trong vài nhịp tim đập, không ai cử động hết. Sau đó, từng người một, những người Alacrya bắt đầu thay đổi, nhìn nhau hoặc quay lại nhìn con đường mà họ đã chạy đến đây bằng khuôn mặt nhợt nhạt. Những chiếc khiên phép nhấp nháy khi những người lính tự buộc bản thân phải cố gắng tập trung, và hàng ngũ những con người nghiêm khắc, có tổ chức dao động và tan vỡ, những sự huấn luyện nghiêm ngặt cũng chả giúp gì họ.
Tôi đợi cho đến khi sự căng thẳng gần như muốn nổ tung. “Ai muốn sống thì đi ngay. Đám còn lại” —Tôi đã kích hoạt chiêu God Step, xuất hiện ở trung tâm của lực lượng Alacrya và giải phóng sát khí tạo từ aether của mình— “ta chỉ có thể ban cho cái chết nhanh chóng.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
- 1. Tóm tắt: Phe Dicathen dành lại thủ đô Vildorial.
- 2. Đã check in nghiêng (italic) từ bản gốc của tác giả.
- 3. Ver.1: May-16th-2022; ver.2: May-28th; ver.3: Sept-10; ver.4: Dec-20th; ver.5: Apr-23rd-2023; ver.6: May-11th-2024;