Chương 457

Trả treo tương ứng

Tên gốc: "Chapter 455: Equivalent Exchange"


  • GÓC NHÌN CỦA ARTHUR LEYWIN

    Tôi nhìn tụi Wraith đang tách nhóm ra rơi xuống, các chú phép vốn bảo vệ bọn này suốt nãy giờ bị lột xác tụi nó khi cơ thể đang lao bổ nhào xuống đất. Có một làn sương máu mỏng manh vẫn trôi lơ lửng trong không khí, đánh dấu nơi mỗi tên đã chết như thể những bia mộ vô hình. Khi màn sương này mờ đi, tôi dụi mấy ngón tay vào chỗ xương ức, cảm giác ngứa ngáy khó chịu trong người đang nhắc nhở về những thất bại ngay cả lúc mà lẽ ra tôi phải cảm nhận được niềm hân hoan của chiến thắng mới phải.

    Sau lưng tôi, tên Windsom dẫn hai con rồng bị thương xuống đất, trong khi gã Charon vẫn rượt theo ba thằng Wraith còn lại về phía bắc.

    ‘Ta có nên đuổi theo gã ấy không?’ bé Sylvie dự đoán, giọng nói vang lên trong tâm trí tôi thể hiện vẻ lưỡng lự.

    Không, đáp xuống cùng thằng Windsom đi, tôi nghĩ, cẩn thận không để cơn giận của mình tràn sang cô bé. Còn với Regis, tôi nói thêm, Tình trạng của gã Chúa Tể sao rồi?

    ‘Đái ra quần,’ Regis đáp lại kèm với hình ảnh trong tâm trí về gã Vritra bị trói và chịu ức chế mana đang trừng mắt giận dữ nhìn lên từ mặt sàn.

    (Nguyên văn: ‘Pissy’ là từ lóng thô thiển trong văn nói Mỹ, từ nhét đuôi ‘-y’ vào với vẻ giỡn cợt. Nghĩa đầu như phía trên, nghĩa thứ hai có nghĩa là “tranh cãi một cách ngạo mạn” và nghĩa này vẫn phù hợp với thái độ của gã Chúa tể đang bị trói được thể hiện ở ngay câu sau)

    Bé Sylvie tiếp đất mạnh mẽ, móng vuốt cắm xuống lớp đất mềm của thung lũng thấp thấp ở dưới. Tôi nhảy khỏi lưng bé ấy, đạp xuống đất với một tiếng phụp ướt nhẹp và bắt đầu phăm phăm tiến về phía Windsom và những tên rồng khác.

    ‘Ba Arthur ơi…’ bé Sylvie nghĩ với vẻ cảnh báo.

    Tôi hỏi: “Ai trong số các người đứng đầu ở đây?” mặc dù mắt đang tìm câu trả lời ở gã Windsom thay vì hai tên rồng đã mệt mỏi vì chiến trận.

    Con rồng đen to lớn đã biến đổi trở lại dạng người, cao và ngực rộng với mái tóc rối tung sẫm màu và bộ râu ngắn. Hắn có những vết nhiễm độc xanh lục nhạt màu ở quanh mắt và dọc xuống cổ.

    Hắn đứng thẳng lên, giận dữ trước giọng điệu từ câu tôi hỏi và đi một bước vững vàng ngang qua chỗ tên Windsom để đối mặt với tôi. “Là ta. Và hẳn người là tên hạ đẳng người—Ối!”

    Mu bàn tay tôi bạt vào một bên má hắn với một tiếng rắc như sấm dội. Tên asura này loạng choạng lùi về đằng sau.

    Sự im lặng theo sau đấy lại thật chói tai. Tên Windsom nhìn tôi dửng dưng, dấu hiệu duy nhất thể hiện ra bên ngoài cho thấy sự ngạc nhiên của hắn là hơi nhướng mày. Miệng con ả asura kia há hốc, đôi mắt có viền đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào đội trưởng của ả với vẻ khó tin. Chính gã asura râu đen kia tỏ vẻ choáng váng, bàn tay dính bùn của gã ấn vào một bên mặt chỗ tôi vừa đánh xong, mắt đờ đẫn không nhìn về hướng tôi đứng.

    Ả đàn bà mặc bộ áo giáp trắng dính máu, thoát khỏi vẻ sững sờ và tiến một bước hung hãn về phía tôi, cây giáo dài hiện ra trong tay ả. “Sao mày dám làm thế, đồ hạ đẳng! Em gái tao vừa hy sinh mạng sống để theo đuổi mục đích của mày, và mày lại tỏ ra thiếu tôn trọng với một người trong tộc Matali như thế à?”

    Gã Windsom chụp cánh tay cô ả, giữ ả lại. “Đừng quên cư xử đúng mực.” Hắn im lặng nhìn tôi một lúc. “Arthur, đánh vậy là có ý gì?”

    Tôi nói: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ tình hình và việc phải đưa ra các quyết định trong chuyện này,” nhấn mạnh từng từ một. “Tôi biết cần phải làm gì, phải chịu rủi ro gì. Nhưng liệu suy nghĩ sẽ cứu bất kỳ ai trong số những kẻ mà các người lẽ ra phải bảo vệ có lướt qua đầu các người hay không? Trong lúc hàng chục người hạ đẳng bỏ mạng đơn thuần do va chạm bởi các người đánh nhau, thì đối với các người, cái chết của họ có ý nghĩa gì nhiều hơn mấy sự hi sinh chỉ đếm bằng con số rồi từ đó các người quy ra là có lợi không?”

    “Cứu chúng ư?” gã asura mới gục xuống lặp lại. Thay vì đứng dưới mặt đất, thì hắn bay lên không trung, nổi lơ lửng trên trời để có thể cúi xuống nhìn tôi. “Sẽ có quá nhiều rủi ro nếu chú tâm làm chuyện gì khác ngoài đánh nhau. Bắt giữ tên Vritra kia, tiêu diệt hết lũ asura tạp chủng kia, sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới. Cái chết của lũ hạ đẳng này, dù kết quả có là tốt hay xấu, thì cũng chẳng làm thay đổi gì đâu.”

    “Và liệu sẽ có thêm bao nhiêu sinh mạng của đám hạ đẳng các người sẽ được cứu nhờ những gì tụi tao đã làm ở đây hôm nay nhỉ?” Ả đàn bà nhổ nước bọt xuống đất, rồi quay đi. “Tao cần phải tìm thi thể em gái mình. Một người tộc Matali sẽ không bị bỏ mặc cho thối rữa ở đây.”

    Gã Windsom bước ra đứng giữa hai chúng tôi. “Những con rồng này vừa hy sinh một người của mình để cầm chân tụi Wraith ở đây đủ lâu chờ ta đến. Tốt hơn là cậu nên nghĩ tới mục đích lớn hơn của chúng ta, Arthur à.”

    Tôi nói: “Tôi không mù khi thấy các người hy sinh,” đáp lời với ả đàn bà asura kia. “Nhưng hành động hôm nay của các người thật lạnh lùng và trái ngược với nhiệm vụ đã dẫn các người đến đây. Sau khi nhẫn tâm coi thường sinh mạng loài người ở đây hôm nay, ngươi có mong gia đình những kẻ đã chết này sẽ thương tiếc cho chính mất mát của các người không?”

    Đầu ả ta hơi cúi xuống khi mắt lướt khỏi tôi, rồi ả bay đi mất.

    Tên asura râu đen lắc lắc đầu. “Arthur Leywin à, nếu muốn thì mày cứ giả vờ làm một asura đi, nhưng rõ ràng là mày vẫn giữ cái nhìn thiển cận của một tên hạ đẳng.”

    Tôi trả lời: “Thật mừng quá,” cảm thấy cơn giận của mình đã nguôi đi phần nào, gạt nỗi buồn phiền cay đắng sang một bên.

    Sự thật là là tụi lính canh này không chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì đã xảy ra ở đây. Chỉ có một kẻ có khả năng lãnh cái vinh dự mơ hồ này thôi, và tôi sẽ sớm trình bày đủ chuyện này với lão. Tuy nhiên, trước hết vẫn còn các chi tiết quan trọng khác đòi hỏi tôi để ý tới.

    Thằng asura râu đen kia đuổi theo ả đồng đội của hắn, còn tôi quay lưng lại với gã Windsom và bắt đầu phăm phăm đi qua bãi đầm lầy. Bé Sylvie đã biến lại thành dạng người và đi cùng tôi. Gã Windsom chẳng nói gì, nhưng hắn bước cạnh bên hông bé Sylvie.

    Cách đây không xa, bên bờ một con sông nhỏ gần như dòng chảy đang bị bóp nghẹt bởi đất đá rơi xuống từ ngọn núi đổ sụp, bé Lilia Helstea đã tập hợp một số người lại, những người còn sống sót trong nhóm bị kẹt giữa làn đạn của cuộc xung đột này. Họ đang cố tập hợp những người bị thương và chuẩn bị di chuyển tiếp, nhưng tất cả đều ngừng lại khi tôi đến gần.

    Bé Lilia trông như đang ở ngưỡng cửa gặp tử thần. Mái tóc dài màu nâu của em ấy bết đầy bùn với máu, hầu hết chỗ da lộ ra khỏi quần áo đầy những vết thương hở miệng và bắt đầu hóa bầm tím, và—thật kinh hoàng—bàn tay phải của em mất đi hầu hết da thịt. Tôi thấy mình đột nhiên quay lại thời niên thiếu ở thành phố Xyrus, sống trong trang viên của gia đình em ấy, cùng nhau dạy phép thuật cho em ấy và nhỏ Ellie, cố làm cả hai đứa cùng thức tỉnh và hình thành lõi mana. Khi đó với tôi Lilia giống như một đứa em gái vậy, và tôi nợ em ấy nhiều điều hơn sự bảo vệ nhỏ lẻ mà em nhận được từ lũ rồng.

    Tuy nhiên, tôi đã không đi đến chỗ em đang đứng.

    Khi ánh mắt của tất cả những người có mặt đang đổ dồn vào tôi, tôi biết vai trò của mình ở đây không phải để an ủi mỗi mình em ấy mà là xưng hô với mọi người như một vị tướng Lance của lục địa Dicathen.

    “Đối với những người chưa biết tới tôi, thì tôi tên là Arthur Leywin,” tôi bắt đầu nói. “Tôi thực sự xin lỗi vì những gì mọi người đã trải qua ở đây hôm nay, nhưng tôi cũng thấy vui khi rất nhiều người đã sống sót sau trận chiến khủng khiếp này.”

    “Tướng quân à…?”

    Nhìn sang trái, tôi thấy một anh chàng bị biến dạng khủng khiếp do hậu quả của một loại phép thuật nào đó. Trông anh ta chẳng có vẻ gì là sẽ sống thêm nổi mười phút nữa, nhưng bằng cách nào đấy anh ta vẫn đứng vững nổi. “Phải rồi! Anh là tướng Lance!” Anh ấy nhìn quanh những người khác, trông anh có vẻ mệt mỏi nhưng tràn đầy sức sống. “Đó là tướng Lance Thánh Phép!”

    Bùa phép mê hoặc do sự xuất hiện của tôi tạo ra với những người sống sót còn lại như bị hóa giải, và một số người lao về phía tôi với bé Sylvie, vài người cảm ơn tôi, những người khác cầu xin tôi đưa họ ra khỏi đây, cứu họ hoặc chữa lành vết thương cho họ. Tệ nhất trong những điều ấy là có người cầu xin tôi tìm kiếm người thân của họ nằm trong đống đổ nát ở đường mòn trên núi.

    Sylv ơi, ta cần con ở lại đây với những người này. Hãy giúp họ bằng mọi cách mà con có thể làm được.

    Cô bé kết khế ước cùng tôi ngay lập tức bước tới, dường như cả người tỏa ra ánh sáng gây thu hút mọi sự chú ý về phía cô bé và khiến những người sống sót phải im lặng. “Hãy bình tĩnh nhé các bạn. Chúng tôi muốn đưa tất cả mọi người ra khỏi đây và đến chỗ các pháp sư chữa thương. Còn giờ chúng ta hãy kiểm tra sức khỏe của mọi người. Windsom, ở lại đây giúp tôi. Hãy làm việc thật hiệu quả nhưng cẩn thận, chúng ta phải…”

    Tôi lại chú ý về phía Lilia. Em ấy nhẹ gật đầu với tôi, hầu như rất khó để nhận ra điều đó, và tôi gắng bày tỏ nỗi buồn của mình với những gì em đã trải qua chỉ bằng ánh mắt. Sau đó, khi bé Sylvie và tên Windsom trở thành tâm điểm của sự chú ý, tôi lùi lại vài bước, kích hoạt ấn God Step, lần theo đường chạy aether trở lại chỗ hang động nằm dưới mớ đất đá đổ nát kia.

    Regis đang ngồi xổm nhìn chằm chằm vào gã Chúa tể. Cậu ta quay ngang vai nhìn tôi và nói: “Đáng lẽ cậu nên bọc aether vào nắm tay rồi đấm thằng mặt cặc đó.”

    Tôi cần gửi một thông điệp cho tụi nó chứ không phải tìm cách gây sự, tôi nghĩ đáp lại. Tôi nói to thành tiếng: “Oludari, ông đến Dicathen kéo theo một cơn lũ máu. Máu người Dicathen và Alacrya thì đều như nhau. Tôi không ở đây để đàm phán hay trao đổi với ông, gã Vritra kia, và tôi chắc rằng hành động tốt nhất nên làm là giết ông. Hãy thuyết phục rằng tôi đang sai đi.”

    “Có thể được, nếu cậu thả ta ra, chúng ta có thể đàm đạo theo cách thoải mái hơn—“

    Khí tức hình thành từ aether của tôi bốc ra đè dí gã asura đang bị trói xuống đất như cái êtô của thợ mộc đang kẹp đồ, trộm đi hơi thở khỏi phổi lão. “Chúng ta đang có một khởi đầu tệ đấy.”

    “Được rồi, được rồi. Cậu vẫn đang khát máu và lạnh lùng như cách cậu đã thể hiện ở trận Victoriad vậy.” Lão thở dễ hơn chút khi tôi giảm bớt áp lực đang tỏa ra. “Cậu đủ thông minh hơn một tên hạ đẳng, không phải lẽ ra đến giờ cậu phải đoán được hết những chuyện này rồi à? Bộ cậu không tận mắt thấy thi thể của gã Chúa tể Exeges hay sao? Tôi không định trở thành nạn nhân chung số phận đâu.”

    Tôi nói: “Ông nghĩ rằng gã Agrona đã giết tên Exeges,” rút ​​ra ý này từ những chi tiết nhỏ mà cô ả Lyra Dreide chỉ ra được cho mình. “Tại sao hắn lại làm vậy?”

    Đôi mắt lão Oludari nheo lại. “Có lẽ kém thông minh hơn tôi tưởng đấy.” Lão hắng giọng, liếc nhìn tôi đầy vẻ căng thẳng. “Cũng tương tự với lý do mà cậu đã hút xì xụp hết lượng mana từ sừng của tên retainer Uto thôi!”

    Tôi quỳ một gối xuống cạnh hắn, không buồn che giấu việc mình đang cáu bẳn. “Nói rõ ràng đi, lão Vritra kia. Có vẻ như ông không hiểu. Ông là kẻ thù và là mối đe dọa cho đến khi ông chứng minh được điều ngược lại. Nội việc giữ ông tránh xa khỏi bàn tay của tên Agrona đã là một thắng lợi rồi, và tôi sẽ giết ông để làm điều đó nếu ông không chứng minh được ý định của mình.”

    Lão nhăn mặt với tôi, phải mất một lúc để trấn tĩnh lại, rồi lão ta nói: “Trên hết, gã Agrona đang tìm kiếm sự tập trung quyền lực. Hắn đã nghĩ sẽ tìm được nó ở Khu Tàn Tích, vốn nằm lẩn giữa mớ xương cốt của tụi djinn, nhưng tất cả những gì chúng để lại chỉ là mấy món trang sức cổ và thứ mê cung đáng nguyền rủa kèm những câu đố tẻ nhạt. Tuy nhiên, hắn cũng chẳng trắng tay khi phát hiện ra cách dùng cổ tự, nhờ đó mà hắn xây dựng được một đất nước pháp sư cho riêng mình, và hắn được huyết thống tộc Basilisk hỗ trợ cho.”

    “Tôi đã biết điều này rồi,” tôi nói với vẻ chua chát, cảm thấy gã Vritra này cứ nói rảo quanh trọng tâm gì đấy mà lão đang muốn nhấn.

    “Dĩ nhiên, dĩ nhiên,” lão ra vẻ tâng bốc, chiến thuật giao tiếp của lão này thay đổi theo từng giây khi lão cứ tìm cách xoa dịu tôi. “Kiểm soát vô số pháp sư và lũ hạ đẳng theo kiểu tập trung sức mạnh của chúng lại, biến thứ sức mạnh đấy thành của hắn, thấy không? Chịu ơn hắn vì mọi thứ, và chúng thậm chí còn không thể phản bội hắn dù chúng có muốn đi chăng nữa. Từ lâu tôi đã nghi ngờ rằng việc số lượng người của chúng tôi ở Alacrya cứ giảm dần phải có liên quan gì đó đến ham muốn sức mạnh cá nhân của gã Agrona, nhưng giờ thì tôi biết chắc chắn rồi: hắn đã hút cạn thằng Exeges, lấy mana tên đó cho riêng mình, để tăng cường sức mạnh bản thân. Hắn đã biết, cậu thấy đấy…” Lão ngừng nói, đôi mắt hơi mở to.

    Tôi nhướng một bên mày và nghiêng người lại gần hơn chút. “Biết cái gì cơ?”

    Lão Vritra lăn ngửa ra đất, cố tỏ vẻ thờ ơ nhưng chỉ khiến chính bản thân lão càng khó thoải mái hơn vì đang bị trói. “Cậu biết đấy, tôi đang gặp khó khăn khi cố duy trì cuộc trò chuyện này. Nếu tôi thấy thoải mái hơn thì sẽ—”

    Bàn tay tôi vòng qua chộp cổ lão trước khi lão kịp nói dứt lời, và tôi dọng người lão vào một cái cột chịu lực cho hang động này tạo thành từ cây gai huyết sắt. Tạo ra một thanh kiếm trong tay trái, tôi ấn mũi kiếm vào má lão cho đến khi có giọt máu chảy xuống làn da nhợt nhạt của lão. “Cơ hội cuối cùng, tên Vritra kia.”

    Vẻ ngoài lãnh đạm bình thản của lão Oludari tan biến, lộ ra nỗi kinh hoàng sau đấy. Khi tôi thả lão ra, lão đổ gục úp mặt xuống sàn, tứ chi bị xích biến thành tư thế nằm nhìn thật bất thường.

    “Hừm. Lẽ ra cậu phải tự biến mình thành một gã Vritra tử tế chứ…” lão ta lẩm bẩm trên sàn đá phủ đầy bùn đất. Đầu hơi nghiêng, và lão lắc lư người cho đến khi ngã sang một bên. “Khi bọn ta rời khỏi Epheotus, có hàng trăm asura trong tộc Vritra cùng các đồng minh của bọn ta. Tên Kezess từ lâu đã chơi đùa với các sinh vật trên lục địa các cậu như những thí nghiệm nho nhỏ của hắn, nhưng hắn đã nhường lại lục địa Alacrya cho các nghiên cứu của gã Agrona ngay cả trước khi bọn ta rời khỏi Bát Tộc.

    “Một số kẻ dần hối hận vì chuyến bay vội vã rời khỏi quê hương và cố gắng quay trở về. Có lẽ vài người đã thành công. Số khác bị săn lùng vì tội phản bội. Nhiều người đã chết khi chiến đấu với lực lượng của Kezess lúc chúng tấn công, và một số ít đã hy sinh trong cái lò mổ mà cậu gọi là Khu Tàn Tích do tên Agrona cố làm mọi cách để dùng các asura thuần huyết xâm nhập vào đấy.

    “Nhưng ngay cả những cái chết đó cũng chưa bao giờ thực sự lý giải được sự suy giảm số lượng người phe bọn ta. Nhưng trong lúc người tộc Vritra ngày càng ít đi, thì dân số Alacrya lại tăng theo cấp số nhân. Ồ, những ngày đầu của thí nghiệm đó. Hãy tưởng tượng đi, nhào nặn tạo hình cả một giống loài theo hình ảnh nghĩ ra trong đầu chúng ta…” Lão dừng lời, một nụ cười mỉm đăm chiêu làm dịu đi khuôn mặt tàn nhẫn của lão.

    “Agrona là một nhà lãnh đạo dễ chấp thuận các ý tưởng và bọn ta được tự do thực hiện các thí nghiệm theo ý muốn. Ai mà có thời gian để thắc mắc tại sao một nửa dân số của bọn ta lại biến mất trong khoảng thời gian một hoặc hai thế kỷ trong khi đang có nhiều bí ẩn to lớn đến thế cần làm sáng tỏ chứ?” Lão cười chua chát, và lắc đầu cay đắng. “Đó là lời nguyền tâm trí của chủng basilisk. Thật khó để thấy những gì đang ở ngay trước mặt khi mà cái nhìn của bọn ta luôn hướng về tương lai hai trăm năm tới.”

    Tôi hỏi: “Và ông nghĩ ngay từ đầu hắn đã–làm gì ấy nhỉ?–giết và hấp thụ chính người của hắn ư?”

    “Ồ, không, không hẳn thế,” Lão Oludari lại tiếp tục, kéo lê người như con sâu đang đo đất. “Không, hắn ta cần thứ gì đó đặc biệt cho việc đấy.”

    “Di Sản,” tôi nói không chút do dự.

    “Ừ, con ấy.” Lão Oludari nói như thể chửi thề. “Di Sản—một linh hồn mang theo tiềm năng từ kiếp này sang kiếp khác. Sự tăng trưởng từ đời này qua đời khác ràng buộc chỉ vào một sinh vật. Tên Agrona đưa ra giả thuyết rằng một sinh vật như vậy có thể thoải mái khai thác mana, vượt qua giới hạn ma thuật của cả người asura lẫn lũ hạ đẳng. Nhưng sinh vật này cực kỳ hiếm. Chỉ có một đứa duy nhất từng được ghi nhận trong suốt lịch sử tồn tại của nền văn minh người asura. Và vì vậy để nghiên cứu một đứa, Agrona cần phải đem con bé đến đây và đảm bảo nó sẽ hợp tác.”

    Tôi gật đầu, đã biết phần còn lại. “Vậy là từ việc nghiên cứu Di Sản kia, hắn đã học được cách hấp thụ mana trực tiếp từ chính người dân của mình. Nhưng điều đó vẫn chưa cho tôi biết tại sao hắn lại làm thế?”

    “Tôi đã nói rồi,” Lão Oludari trả lời đơn giản. “Sự tập trung quyền lực. Có nhiều tầng nấc trong vũ trụ này, gập chồng lên nhau giống như cái nơi đặt Khu Tàn Tích vậy.”

    “Và cả Epheotus nữa,” tôi nói với vẻ thăm dò.

    “Hưm,” Lão Oludari ậm ừ, cau mày. “Không hẳn vậy. Lục địa Epheotus là…thứ gì đó khác biệt. Nó không còn ở đây nữa nhưng cũng không hoàn toàn ở đó. Một hình chiếu của thế giới vật chất chứa trong một chiều không gian khác. Có lẽ cũng chung chiều không gian với Relictombs, nhưng tôi không chắc. Thật thú vị, dù cậu không biết, nhưng đã vô tình phát hiện ra mối liên hệ đấy.”

    “Ý ông là gì?”

    Lão Oludari thở dài và nhắm mắt lại, trông có vẻ chịu thua. “Tôi không biết tất cả mọi thứ—tên Agrona đã tỏ ra khá thành thạo trong việc đánh lạc hướng và chia tách mọi người khỏi các thông tin—nhưng tôi sẽ kể cho cậu nghe những gì tôi có thể. Sau khi thả tôi ra và giúp tôi thoát khỏi nơi này. Đưa tôi tới chỗ tên Kezess. Tôi sẽ kể cho cả hai người nghe mọi chuyện, và cậu có thể ép hắn cho phép tôi quay về quê nhà mình. Tôi có thể hữu ích cho các bộ tộc Basilisk khác, tôi có thể—”

    “Không,” tôi ngắt lời, lùi một bước và quay lại nhìn dòng nước đen của con sông ngầm đang chảy êm đềm.

    “Cái gì?” Lão hỏi một cách hoài nghi. “Nhưng tại sao-—”

    ‘Gã Charon đang trên đường đến đấy,’ bé Sylvie chuyển suy nghĩ đến cùng với lúc tôi cảm nhận được dấu hiệu mana của gã rồng kia đang lại gần.

    Một lần nữa hóa thành dạng người, gã rồng lao vào lỗ đường hầm mà con mụ Wraith đã để lại khi chạy trốn và nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt tôi. Dường như thể chính cơ thể hắn tỏa ánh sáng trắng lạnh lẽo ra hang động mờ ảo nơi đây. “Ta vốn muốn ngươi đợi cho đến khi ta tới hẵng nói chuyện với gã tù nhân,” hắn ta nói ngay mà chả cần mào đầu gì cả.

    Tôi chờ một lúc, cảm thấy tên Windsom đang đuổi theo hắn. Đôi chân Windsom chạm đất nhẹ như tiếng thì thầm, và hắn đi ngang qua chỗ gã Charon đang đứng để kiểm tra lão Chúa Tể.

    Tôi nói: “Hắn ta rất muốn được đưa đến chỗ lão Kezess,” tên Windsom chuẩn bị đồng ý, nhưng tôi ngắt lời hắn và nói: “Đó chính xác là lý do tại sao chúng ta sẽ không làm thế.”

    Tên Windsom cau có và nhìn gã Charon để tìm sự ủng hộ. Gã asura người đầy sẹo đang cau mày, nhưng hắn chưa phản đối tôi ngay tức khắc.

    “Có phải tên hạ đẳng này phát ngôn thay cho các con rồng vĩ đại của tộc Indrath không?” Lão Oludari nạt ngắt lời, nhổ nước bọt xuống đất trong cơn giận dữ. “Các người thật sự là một lũ thảm hại—”

    Chân tên Windsom đè lên cổ lão Vritra, khiến lão ta nghẹn lời.

    Tôi tiếp tục nói: “Cho đến khi chúng ta biết được nhiều thứ hơn, lão Oludari sẽ không đạt được điều mình muốn.” Tất nhiên đó chỉ là một nửa sự thật thôi. Thực sự, tôi không muốn cung cấp thêm cho thằng Kezess bất kỳ thông tin chi tiết nào về kế hoạch của tên Agrona cho đến khi tôi chắc chắn rằng nên chia sẻ thứ kiến ​​thức đó, hoặc ít nhất là cho đến khi tôi tự đạt được thứ kiến ​​thức này trước tiên.

    “Điều đó không tùy thuộc vào ý cậu đâu, cậu bé à,” tên Windsom nổi giận. “Oludari Vritra là một tù nhân quá giá trị đến nỗi không thể bị bỏ lại đây, nơi hắn có thể bị truy lùng lần nữa, dẫn đến nhiều cuộc tấn công hơn và nhiều thương vong hơn.”

    “Đó là lý do tại sao tôi yêu cầu Charon nhận thẩm quyền cá nhân trong việc bảo vệ cho lão Oludari. Làm cho lão này trở thành một mục tiêu quá khó không đáng để gây ra phiền phức, hay thậm chí tốt hơn, đem cơ thể lão đi giễu hành khắp nơi và tuyên bố rằng lão ta đã bị giết cùng với ba tổ chiến đội của tụi Wraith, vốn là lực lượng tinh nhuệ của tên Agrona, trong lúc chúng cố xâm nhập vào lục địa của chúng ta.

    Gã Charon mất một lúc để nghĩ câu trả lời trước khi nói: “Để cho bọn gián điệp của Agrona sẽ báo cáo về cái chết của tên Chúa Tể…và loài rồng bọn ta có thể khoe điều này như một thắng lợi trước người dân. Thông minh đấy. Và ngươi sẽ ở đâu trong cái kế hoạch này?”

    “Windsom sẽ đưa tôi đến gặp lão Kezess,” tôi nói chắc nịch. “Ngay bây giờ.”

    Tên Windsom trừng mắt nhìn gã Charon, rồi đến tôi. “Ta đã biết từ khi gặp cậu lần đầu rằng cậu là một sinh vật cứng đầu. Nhưng sống một cuộc sống làm tâm điểm cho sự chú ý ở cái lục địa hạ đẳng này đã khiến cậu có niềm tin sai lệch rằng cả thế giới này—thậm chí cả vũ trụ này—đều xoay quanh cậu. Sự thật thì cậu chỉ là một con cờ rất nhỏ trên một bàn cờ rất lớn và trò chơi này không hoàn toàn xoay quanh mọi nước đi của cậu đâu, Arthur à.”

    Không hề bối rối, tôi liếc ánh mắt kiên định về phía thằng asura này.

    “Được thôi,” cuối cùng hắn ta nói, đứng thẳng lên và phủi bụi trên bộ đồng phục của mình. “Tôi đang háo hức chờ nghe xem cậu sẽ giải thích những quyết định này với Chúa tể Indrath như thế nào đây.”

    Sau khi chuyển đi một số chỉ dẫn cho bé Sylvie và Regis trong tâm trí, cả hai người họ sẽ ở lại đây, tôi lặp lại điều mình mong đợi với gã Charon—bao gồm cả việc không còn người Dicathen nào gặp phải nguy hiểm nữa—rồi cúi xuống trước mặt lão Oludari. “Tôi khuyên ông nên gắng hết sức mà nhớ lại mọi thứ trước lúc tôi quay về nếu ông còn muốn gặp lại lục địa Epheotus, lão Vritra kia.” Cuối cùng, tôi đứng dậy và nhìn tên Windsom với vẻ chờ đợi.

    Tên Windsom nhìn qua nhìn lại giữa tôi và gã Charon, vẻ bực tức khắc rõ trên từng nét mặt. Hắn buông ra tiếng chế giễu cáu kỉnh: “Lại đây nào, Arthur. Có vẻ như tôi đã biến thành dịch vụ taxi đơn thuần để di chuyển giữa các vùng đất rồi.”

    Không lãng phí thêm thời gian, hắn rút ra một vật tròn, dẹt và cẩn thận đặt nó xuống sàn. Lấy ra một giọt máu từ đầu ngón tay, hắn nhỏ máu rơi xuống cái đĩa. Chiếc đĩa mở rộng ra, chiếu lên một cột sáng, giống như nhiều năm trước đây khi lần đầu hắn đưa tôi đến lục địa Epheotus để rèn luyện.

    Hãy cẩn thận đấy, tôi chuyển ý nghĩ tới bé Sylvie. Gã Charon vẫn hành xử dưới vai là kẻ lãnh đạo dựa vào lý lẽ, nhưng ba không biết liệu chúng ta có thể tin tưởng vào ý định của hắn hay không.

    ‘Ba cũng vậy nhé,’ cô bé nghĩ đáp lại. ‘Mọi thứ hiện đang tiến triển nhanh chóng và vẫn còn rất nhiều điều chúng ta chưa biết được.’

    Hít một hơi thật sâu, tôi bước vào cánh cổng dịch chuyển.

    Không khí trở nên mát mẻ khi tôi xuất hiện trên đỉnh núi, cũng giống như lần đầu tôi đến vậy. Lâu đài của tộc Indrath hiện ra lờ mờ trước mắt, tráng lệ và đáng lo ngại, một công trình kiến ​​trúc được chạm khắc lên từ chính vùng đất này và lấp lánh với hàng nghìn viên đá quý sáng lung linh. Cây cầu rực sáng nhiều màu vẫn bắc qua hai đỉnh núi như trước, một cơn gió nhẹ thổi qua những cánh hoa hồng đung đưa trên những cái cây phủ khắp đỉnh núi.

    Khi lần đầu được đưa đến đây, tôi đã tràn ngập cảm giác kinh sợ về một thế giới khác thường. Tuy nhiên, giờ đây, ngọn lửa lạnh lẽo từ cơn giận bị kìm nén của tôi đã đốt cháy mọi cảm xúc ngoại trừ nỗi khao khát xử lý chuyện này.

    Tên Windsom không đợi tôi mà đi băng băng qua cầu, thậm chí còn chẳng thèm ngoái lại nhìn. Tôi đi theo nhưng vẫn nhận thức quá rõ về những sợi tua rua ma thuật đang quằn quại thăm dò trong đầu khi băng qua cây cầu làm bằng khoáng sản hiếm kia.

    Chúng tôi đến chỗ cửa chính được tên Windsom tự tay mở ra. Khi tôi bước vào, nguyên dãy hành lang trải rộng ở phía trước bị co giật gây nên sự khó chịu, rồi hành lang dường như sụp đổ, cuốn tôi theo.

    Tôi loạng choạng bước trong một căn phòng nhỏ hơn có chu vi hình tròn. Quay người quanh, tôi cố tự định hướng, một thanh kiếm aether đã nằm sẵn trong lòng bàn tay nắm chặt đến độ các đốt ngón tay trở nên trắng bệch.

    Tên Windsom không còn ở cạnh tôi nữa, nhưng sau một giây tôi đã nhận ra khung cảnh xung quanh.

    Con đường Thấu Thị trông cũ nát chiếm trọn vị trí ở tâm của căn phòng tháp.

    Một áp lực hiện diện mạnh mẽ kiềm kẹp lấy thanh kiếm aether trong nắm tay tôi và trục xuất nó biến mất bằng một lực cực mạnh. “Ở đây không cần đến nó,” giọng thằng Kezess vang khắp phòng.

    Tôi nhìn quanh, ban đầu không thấy hắn. Rồi thì, đột nhiên tôi thấy mất phương hướng, và hắn ta đang đứng sẵn ở phía đối diện của vòng tròn trông cũ nát trên sàn kia.

    Hắn đang chơi trò phô diễn quyền lực, tôi biết chứ, cố làm tôi chao đảo và khiến tôi khó chịu. Tôi gồng chặt người, hơi thở trở nên bình tĩnh, nhịp tim chậm lại. Tôi nhìn hắn một cách thản nhiên, khẽ thở dài: “Ông đã biết chuyện gì vừa xảy ra chưa?”

    Tên Kezess hơi nghiêng đầu, làm tạo ra một làn sóng chuyển động lan khắp mái tóc sáng màu của hắn. “Windsom đã giải thích một số điều. Phần còn lại, hắn nói ngươi sẽ kể cho ta nghe.”

    “Tôi chẳng vui mừng gì gặp ông đâu. Tôi đã ở đây được bao lâu rồi? Chắc hẳn ông cũng hiểu tầm quan trọng của việc tôi phải quay lại Dicathen đúng lúc.”

    Hắn xăm soi móng tay mình, cố tình không nhìn tôi. “Có lẽ ngươi sẽ bớt vội hơn nếu đi cùng cháu ta và tên Oludari của tộc Vritra đấy.”

    Tôi chỉ để lộ một nét cau mày nhỏ trên gương mặt. “Ông đã hứa bảo vệ Dicathen, đảm bảo rằng xung đột giữa các asura sẽ không tràn vào lục địa này, nhưng tôi vừa đến từ một chiến trường với hơn hai trăm người Dicathen thiệt mạng, và tôi còn không biết trước đó đã chết bao nhiêu người Alacrya đến tị nạn nữa. Làm sao tôi có thể tin tưởng giao bé Sylvie hoặc tên Oludari cho ông nếu ông không thể giữ đúng thỏa thuận của chúng ta chứ?”

    “Phải, lũ Wraith và cuộc tấn công của chúng… cuộc tấn công mà ngươi đã cảnh báo cho thằng Charon trước nhiều ngày,” Gã Kezess trầm ngâm, bất động, đôi mắt màu thạch anh tím sáng rực nghiêm nghị và trông bén như dao. “Đó là chỗ mà tên Windsom không thể giải thích rõ cho ta được. Chính xác thì làm sao ngươi mà biết được rằng tụi Wraith sẽ tấn công Etistin chứ?”

    “Đừng đánh trống lảng,” tôi phản đối. “Tôi cần ông đảm bảo rằng những con rồng được cho là đang bảo vệ lục địa Dicathen sẽ có những ưu tiên rõ ràng. Chúng tôi không cần những tên bù nhìn vô hồn.”

    Hai cánh mũi tên Kezess phập phồng lên xuống, dấu hiệu duy nhất cho thấy hắn đang tức. “Những tên bù nhìn vô hồn ư? Tiếp theo là gì đây, ngươi sẽ tỉa tới ta thêm lần nữa vì những hành động mà ta đã làm với tụi djinn à? Ta đã nói với ngươi rồi, Arthur, ta sẽ không ngần ngại hy sinh một mạng sống hạ đẳng hơn vì lợi ích lớn hơn, hoặc thậm chí hi sinh cả hai trăm tên hạ đẳng, và binh lính của ta cũng vậy. Nhưng rồi thì, chính ngươi cũng hiểu rõ điều này mà. Không phải ngươi đã nói ngươi sẽ không giết hàng triệu người Alacrya chỉ để cứu hàng ngàn người Dicathen đó sao? Ngươi đã tính xong bài toán đạo đức rồi, giống như ta vậy thôi.”

    “Tôi không ở đây để đấu khẩu mấy lời lẽ gai góc, mặc dù còn rất nhiều lời đã dồn sẵn lại,” tôi nói sau vài giây im lặng. “Vấn đề ở đây là thỏa thuận của chúng ta. Những tên lính của ông không làm những gì ông đã hứa, và chính ông cũng không nói với tôi mọi điều ông biết. Tôi đã thấy Charon và Windsom phản ứng thế nào trước những thông tin luyên thuyên từ mồm tên Oludari. Họ biết nhiều hơn những gì họ muốn tiết lộ.”

    Điệu bộ của tên Kezess dịu đi khi hắn giãn người ra. “Ngươi nói đúng. Sự thấu hiểu sâu sắc về aether của ngươi sẽ chẳng ích lợi mấy cho ta nếu tên Agrona thắng trong cuộc chiến ở thế giới của ngươi. Ta không thể để cho tên Agrona biết mọi thứ mà ta biết, hoặc thậm chí biết những gì ta đoán ra được, và bởi vậy nên ta đã cách ly ngươi khỏi một lượng thông tin nhất định. Ta sẽ tiếp tục làm như vậy, nhưng bây giờ ta có thể thấy rằng có một số điều cần phải đưa ra ánh sáng.”

    Tôi khoanh tay và đứng tựa lưng vào tường, hơi thoải mái một chút. “Có lẽ ông có thể bắt đầu bằng việc nói cho tôi biết tại sao ông lại để mọi chuyện đi xa đến mức này? Ông đã có thể tạo ra một cơn sóng thần bằng máu cuốn trôi cả lục địa Alacrya từ nhiều thế kỷ trước rồi. Cả đạo quân asura chống lại mỗi một gia tộc thì sao?”

    “Agrona rời khỏi Epheotus cùng với toàn bộ gia tộc hắn, đúng vậy, đó là một phần của vấn đề thôi. Và không chỉ tộc Vritra mà còn kéo theo cả một số đồng minh nữa.” Tên Kezess bắt đầu chậm rãi bước quanh vòng tròn mòn vẹt có tên là Con đường Thấu Thị. “Hành động này là một mối đe dọa hiện hữu đối với tất thảy lũ hạ đẳng cũng như người asura. Một cuộc xung đột với quy mô cỡ vậy trên thế giới của ngươi sẽ rất tàn khốc.”

    “Với những kẻ thấp kém, đúng vậy, nhưng với cả người asura nữa ư?” Tôi cau mày và lắc đầu. “Phần nào của câu chuyện này mà ông chưa kể cho tôi đây?”

    Tên Kezess trả lời: “Tên Agrona gần như thách thức chúng ta gây chiến,” hắn nhìn chằm chằm xuống con đường kia khi đi chầm chậm theo vòng tròn. “Gia tộc hắn và các đồng minh của chúng đã được bố trí rất chiến lược để đảm bảo rằng bất kỳ trận chiến nào cũng gần như chắc chắn sẽ dẫn đến sự hủy diệt thế giới của ngươi.”

    Tôi cẩn trọng kiểm soát giọng điệu và nét mặt mình, cố kìm nén vẻ chế giễu đầy hoài nghi. “Cứ cho như điều đó là đúng đi thì ông vốn đã phạm tội diệt chủng với một nền văn hóa từng chiếm số đông ở thế giới trước đây. Còn giới hạn nào nữa chứ? Điều gì đã ngăn cản ông không làm thế với tên Agrona nhưng với người djinn thì—”

    “Mọi thứ!” hắn nạt ngang, vẻ hoàn toàn điềm tĩnh của hắn vốn giống một lớp mặt nạ đã bị tuột xuống ngay lập tức. “Mọi thứ ta đã làm đều là để giữ cho thế giới này tồn tại, và sẽ là khôn ngoan hơn nếu ngươi đặt điều đó lên hàng đầu trước khi chế ra bất kỳ giả định xa xôi nào khác về ta.”

    Trong sự im lặng kéo theo sau cơn tức giận bộc phát bất ngờ của Kezess, tôi nhớ lại những lời vang vọng từ đợt thử thách của cục keystone mới đây. Hắn đã nói với người djinn rằng việc họ sử dụng aether là mối nguy hiểm cho thế giới này. Và Quý cô Sae-Areum nói rằng hắn đã đưa ra lời cảnh báo nào đó với họ, điều gì đó đã thôi thúc họ tìm kiếm vượt ra ngoài lằn ranh thế giới chúng ta, nhưng điều đó là gì nhỉ?

    Bất chấp mong muốn dồn ép tên Kezess nói nhiều hơn nữa, tôi vẫn kìm suy nghĩ của mình lại. Tôi cần hiểu mọi thứ, nhưng tôi phải cẩn thận.

    Tên Kezess đứng rướn lên cao hơn, thẳng lưng. Vẻ căng thẳng dường như thoát đi tức thì nhờ tư thế đứng của hắn và hắn lại tiếp tục đi tới đi lui. “Thay vì tham gia chiến tranh thảm khốc, bất chấp khả năng chúng ta sẽ thắng, ta đã cử sát thủ đi, càng nhiều và càng mạnh càng tốt. Nhiều tên Vritra đã chết, nhưng rõ là không thể tiếp cận được tên Agrona.”

    Ít ra thì điều này phù hợp với những gì tôi đã được nghe trước đây, nhưng những lời của cô Sae-Areum và lão Chúa tể Oludari vẫn khiến tôi bận tâm. “Vậy rốt cuộc thì tên Agrona thực sự muốn gì? Tất cả những chuyện này xảy ra để làm gì?”

    Tên Kezess ngừng bước và đối mặt với tôi. “Arthur, hãy để ta chia sẻ một chút về lịch sử của chúng ta với ngươi, để ngươi có thể hiểu rõ hơn.

    “Khi Epheotus vẫn còn là một lục địa thứ ba nằm giữa Dicathen và Alacrya trên đại dương, người asura rất giống chủng elf ở vùng Elenoir. Tổ tiên của bọn ta là một cộng đồng người luôn quý trọng thế giới tự nhiên quanh họ, sống cân bằng với nó. Nhưng cân bằng có nghĩa là xung đột, và thông qua đấu tranh liên tục sẽ có sự phát triển.

    (Nguyên văn: “the asura were much like the elves of Elenoir” Câu này của Kezess muốn nói cách hành xử với giới tự nhiên của chủng asura giống với chủng elf, chưa chắc chủng asura trước đây giống với chủng elf về mặt ngoại hình)

    “Sự phát triển đến vậy của bọn ta đã tới mức phép thuật vượt qua giới hạn về hình dạng bề ngoài. Khi điều này xảy ra với bọn djinn, chúng đã dùng các mẫu chú phép (spellform), tăng cường sức mạnh cho cơ thể và tăng khả năng kết nối với mana và aether thông qua các hình xăm cổ tự. Nhưng đối với chủng asura thì lại hoàn toàn khác.

    “Bọn ta đã tìm kiếm những hình dáng mới. Là những hóa thân vật chất của các khả năng ma thuật thuần túy mà bọn ta đã rèn giũa qua vô số thời kỳ. Bọn ta đã hóa thành chủng rồng, chủng người cây (hamadryad) và chủng chiến thần (pantheon). Và qua thêm vô số thời kỳ nữa, những đặc điểm đó đã phát triển thành một khía cạnh cố hữu ở các chủng tộc của bọn ta, khiến chủng này tách biệt hẳn với chủng kia, mỗi nhánh trong cây gia phả của chủng asura ngày càng trở nên độc đáo hơn theo thời gian.

    “Bọn ta đã trở thành bậc thầy của thế giới này, chinh phục cả phép thuật và những con quái thú tự nhiên, những sinh vật còn khủng khiếp hơn nhiều so với cái lũ hiện đang chiếm vùng Beast Glades của các ngươi. Và sau đó, khi tài nguyên của bọn ta cạn kiệt và lòng khao khát phát triển không ngừng tăng lên, bọn ta bắt đầu chinh phục lẫn nhau. Lũ wraith (bóng ma)—không phải là cái tụi binh linh hạ đẳng pha asura của tên Agrona đâu, mà là một nhánh cổ xưa trong cây gia phả của người asura—là những kẻ phạm tội nặng nhất. Chúng là một chủng tộc chiến tranh, và chúng đã xây dựng chính tộc mình bằng xương cốt của những kẻ mà chúng đã khuất phục được. Cuối cùng, mọi chủng tộc, mọi gia tộc đều bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh tàn phá sạch thế giới này, nhấn chìm các lục địa và đốt cháy biển cả. Bọn ta đã quên mất rằng bọn ta đã từng sống cân bằng với vùng đất này cho đến khi xung đột đẩy phép thuật của bọn ta đến mức độ tàn phá càng ngày càng nặng nề hơn.

    “Chỉ đến khi những tên wraith cuối cùng ngã xuống thì những người asura còn lại mới thấy được họ đã trở thành những người như thế nào.”

    Tên Kezess dừng lại, đang đo lường phản ứng của tôi.

    Tôi cẩn thận cân nhắc các tầng nấc ngụ ý trong câu chuyện của hắn. “Đây là sự thật lịch sử hay chuyện ngụ ngôn thế?”

    Tên Kezess nở một nụ cười thích thú với tôi. “Cả hai, ta cho là vậy. Đây là những gì đã xảy ra được kể lại theo ghi chép của bọn ta, nhưng ta không chỉ đơn thuần dạy ngươi một bài học lịch sử. Tên Agrona đã tạo dựng cho mình một quốc gia hoàn toàn sùng bái hắn. Hắn đã loại bỏ bất kỳ đối thủ nào ở Alacrya. Và với quân đội của mình—lũ pháp sư phủ đầy ấn trên người, bọn Wraith và thậm chí cả con Di Sản nữa—hắn ta tìm cách chinh phục thế giới của ngươi, và rồi hắn sẽ tìm đến thế giới của ta. Điều đó, Arthur à, là thứ tên Agrona muốn: chiếm lấy những gì mà người của ta và ngươi đã xây dựng nên, khuất phục thế giới của chúng ta và giành lấy chúng cho riêng hắn. Hắn ta muốn cai trị tất cả, kiểm soát tất cả, bằng bất cứ giá nào.”

    Tôi gật đầu hiểu ý, trầm ngâm nghĩ ngợi về câu nói của hắn trong khi che giấu vẻ nghi ngờ ngày càng tăng lên của mình. Lão Oludari đã nói rõ một điều: Tên Agrona đang tìm kiếm sức mạnh cá nhân, và trong quá trình này đã đồng thời tước đi những đồng minh mạnh mẽ nhất của mình. Trong suốt thời gian làm vua, tôi bắt buộc phải hiểu tầm quan trọng của những người quanh mình. Và nếu những gì giả thuyết lão Oludari gợi ra là đúng, thì Di Sản thậm chí không chỉ là vũ khí cho Agrona mà còn là công cụ để hắn ta hấp thụ mana từ dòng tộc mình.

    Tên Agrona đã nhiều lần chứng tỏ rằng hắn hết lần này tới lần khác đi trước tôi ba bước, biến mọi tình huống thành có lợi cho hắn ta. Và rồi tôi nhận ra rằng mình luôn thiếu đi một thứ thiết yếu cho bất kỳ thắng lợi nào trong chiến tranh: sự hiểu biết.

    Đấy chính là điều mà tên Kezess đang giữ tôi tránh xa khỏi nó.

    Tôi cẩn thận ngẫm nghĩ về những lời dối trá của hắn trong khi nét mặt tôi giãn ra thành một nụ cười biết ơn. “Kezess, cảm ơn ông vì đã thành thật với tôi.”

    Tác giả: TurtleMe
    Người dịch: Nightmoonlight


    Ghi chú của người dịch

    1. 1. Tóm tắt: Art nói chuyện với Oludari và Kezess.
    2. 2. Dưới góc độ người dịch là mình, như Art cũng đã nói là phát hiện ra Kezess nói dối, nhưng tác giả cố tình lấp lửng để ta không biết được Kezess nói dối những chỗ nào, nhằm tung hỏa mù với độc giả. Tác giả cũng cố tình kể dông kể dài câu chuyện cho ta và đến câu cuối cùng mới chốt là nội dung vừa nghe có nói dối. Vì thế, ta cũng đừng tin tưởng tuyệt đối những gì Kezess (và cả mấy chương sau khi Art nói với Oludari có Charon và Windsom ở đó) sẽ nói. Nếu đơn giản nhất thì Kezess chỉ nói dối chỗ mục đích thực sự của Agrona.
    3. 3. Đã check in nghiêng (italic) từ bản gốc của tác giả.
    4. 4. Ver.1: Feb-23rd-2024; ver.2: Feb-24th; ver.3: May-16th
    Dịch giả Nightmoonlight avatar Tôi là Nightmoonlight, dịch giả online, chính trị gia online, chuyên gia QHQT online, chuyên viên phân tích online mọi vạn vật trong vũ trụ nhé 😌 Mong mọi người ủng hộ tôi! 😁
    Loading...