Thay đổi
Tên gốc: "Chapter 450: Changes"
“Làm ơn đi?”
Cô Seris vẫn đứng đơ như tượng khi lão Oludari khều khều dưới chân, khuôn mặt vừa mong chờ lẫn van nài của lão ấy ngước lên nhìn.
Chuyện này dường như là điều gì đó vượt hơn cả một cơn ác mộng nữa. Chẳng có tý thực tế nào giúp tôi hiểu rằng nó hợp lý thỏa đáng với những gì mình đang thấy.
“Ta còn rất nhiều việc chưa hoàn thành…” lão Oludari rên rỉ, những ngón tay lêu khêu như chân nhện của hắn đang vò vò lớp áo choàng của cô Seris. “Có hết tầng nấc này đến tầng nấc kia rồi tầng nấc nọ trong thế giới này, chỉ chờ được bóc tách ra, từng chút một, nhưng sẽ không có ai bóc tách chúng nếu ta ra đi. Tên Agrona nghĩ rằng hắn là người duy nhất biết, nhưng ta đã nhìn thấy những cái bóng, ta đã cảm thấy bề mặt bong bóng ngày càng căng dần lên đến mức sắp nổ, ta…”
Lão Chúa tể nghẹn lời vì tiếng rên rỉ của chính mình và bắt đầu ho, đôi vai run rẩy. Khi cơn ho qua đi, lão ấy rũ xuống như một cái cây bị héo.
Chớp mắt như thể vừa mới tỉnh dậy sau giấc ngủ sâu, cô Seris liếc quanh đám đông đang đứng đờ người, rồi nhìn qua Cylrit, và cuối cùng là ngó tôi. Độ chừng nửa giây, trong mắt cô ta hiện lên một câu hỏi mà tôi cũng không biết phải trả lời thế nào. “Tôi phải làm gì giờ?” Đôi mắt cô ấy đang hỏi, nhưng ngay khi chạm mắt tôi, vẻ mặt cô ta rắn lại thành vẻ quyết tâm khi đi đến câu trả lời do chính mình tự nghĩ ra.
Chầm chậm, cô Seris ấn tay lên má lão Oludari. “Chúa tể, ngài bình tĩnh lại đã.”
Lão Oludari đột nhiên túm lấy chỗ hai cổ tay áo Seris đang mặc và kéo dúi cô ta xuống chừng vài inch. “Giúp ta với! Giấu ta đi! Lũ rồng, gã Lance kia, cô…cô quen chúng! Cô đã ngăn cản được hắn ta trước đây. Ta không hiểu làm thế nào, nhưng cô đã cản được! Ta ra lệnh cho cô làm lại đấy! Và…và gã Lance kia cũng thế. À phải, dẫn ta đến gặp hắn. Đến chỗ thằng Arthur Leywin ấy.”
(Nguyên văn: “You’ve foiled him before” Cố gắng hiểu theo bối cảnh không đầu không đuôi của câu nói run lẩy bẩy này thì ‘him-hắn ta’ ở đây có thể là Agrona qua tình huống tạo khiên chắn che cả vùng Sehz-Clar)
Cô Seris dứt khoát giằng người mình ra khỏi cú kìm kẹp của lão, rồi thì thình lình như sét dội, cô ấy tát mạnh vào giữa mặt lão ta.
Đầu lão Chúa tể bật sang một bên, tiếng khóc lóc nức nở của lão bị ngắt đột ngột. “S-sao cô dám, ta…ta…”
Cô Seris nói: “Ngài hãy tỉnh táo lại đi,” dường như lúc này cô ấy đã kiểm soát được bản thân mình nhiều hơn trước. Cô ta chìa tay ra và lão Oludari nắm lấy, để kéo lão ấy đứng lên.
Bùa mê thuốc lú đang bao trùm cả đám đông như bị phá, và hầu hết mọi người bắt đầu bỏ đi vội vã, trốn vào làng. Udon lao tới chỗ em trai, đỡ cậu ta đứng dậy và phủi bụi khỏi quần áo, nhưng người em Idir đẩy cậu ta ra, chạy nhanh đến chỗ một trong những người nông dân khác.
Người nông dân kia, giống như những người khác, nằm sấp và bất động. Tôi cảm nhận được điều này khi dấu hiệu mana của họ đang phai nhạt dần đi; hết thảy bọn họ đều đã chết.
Tôi ngó đi hướng khác, tức giận và thất vọng nhưng không biết truyền tải cảm xúc của mình ra sao. Sự cẩu thả vô ý tứ của lũ asura…
Không ít người nán lại, chậm rãi tiến lại gần, ánh mắt mê mẩn dán chặt vào lão Chúa tể, rõ ràng chẳng nhận thức được tâm trạng sầu thảm hiện tại của lão này.
“Thưa Chúa tể. Làm ơn, hãy tha cho chúng tôi—”
“—mang bọn tôi về nhà—”
“—chỉ làm những gì chúng tôi phải làm để tồn tại thôi, thưa Chúa tể!”
Cylrit sạt tay vào khoảng không, những lời cầu xin lan man im bặt, và mọi người lùi lại. Tất cả ngoại trừ gã Lars Isenhaert, kẻ đang lao về phía lão Chúa tể.
Đôi mắt lão Oludari mở to và mana tràn ra khỏi người.
Gã Isenhaert bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất và hất bay ngược lại đám đông, đè gục vài người khác. Rốt cuộc thì điều này cũng đủ phá tan cơn sung sướng của họ, và bọn họ gần như giẫm đạp lên nhau để chạy trốn, để lại gã Lars nằm rên rỉ trên mặt đất. Lão Ector, gã Corbett, và một người phụ nữ mà tôi nhận ra là một trong những người lính của Lars vội vã đến bên gã ấy.
Cô Seris liếc nhìn tôi. “Chúng ta cần đưa gã Chúa tể này đến một nơi nào đó an toàn hơn…cho mọi người.” Cô ấy ngưng lời, vẻ tập trung lướt qua tôi chú ý vào khoảng không đằng xa.
Tôi quay lại nhìn, máu tôi hóa lạnh ngắt.
Đằng phía chân trời, chỗ dãy núi Grand Mountains chia cắt Hoang mạc Elenoir với vùng Beast Glades khỏi phần lãnh thổ còn lại của lục địa Dicathen. Mới cách đây không lâu, những đỉnh núi phủ tuyết kia đã chìm trong sương mù trắng dày đặc. Còn giờ, một đám mây đen trôi thấp phía dưới đang lướt nhanh qua các ngọn núi. Tuy nhiên, ngay lúc tôi đang quan sát đây, nó vẫn lao theo mấy vách đá dựng đứng, đổ dốc xuống vùng đất tro bằng phẳng phía dưới và cuồn cuộn ào về phía chúng tôi với tốc độ cực nhanh.
“Không,” lão Oludari rên rỉ. “Không không không. Hắn biết rồi. Hắn tìm thấy ta rồi.” Lão Oludari nắm lấy tay Seris, siết chặt đến mức cô ta nhăn cả mặt.
“Bọn Wraith…” cô Seris thở hắt ra, giằng người thoát khỏi lão Chúa tể và ngập ngừng đi vài bước đến đứng cạnh tôi. Hai bàn tay đặt cạnh hông co chặt lại đến nỗi các khớp trên đốt ngón tay hóa trắng bệch.
Dây thần kinh trong đầu tôi căng như muốn đứt tung. Tôi bước đi như thể đang mơ màng, quay lưng lại với đám mây kia. Ánh mắt tôi quét qua cả ngôi làng đang hoảng loạn, nhìn vào tất cả những người mà tôi đã dày công bảo vệ và giúp đỡ để phát triển sau chiến tranh, những người mà tôi coi như bạn bè…như gia đình, thậm chí là, vừa dùng đến cả câu từ của vùng Dicathen mà diễn tả.
Đó là một từ hay hơn từ ‘huyết tộc’, tâm trí sắp-mê-sảng của tôi nghĩ ra nó đấy.
(Nguyên văn: “…people I considered my friends…family, even, to use the Dicathian word.” Câu này phải đọc nguyên văn mới dễ hiểu. Cụm ‘Dicathian word’ ở đây ám chỉ từ ‘family’, ở Alacrya chỉ dùng từ ‘blood’ để chỉ từ ‘gia tộc, gia đình’ Vì thế khi dùng từ ‘family’ trong vô thức khi đang hoảng sợ chứng tỏ tâm trí Lyra vốn đã rũ bỏ những nét văn hóa của Alacrya và cô ta yêu quý những người đang ở đây)
Trong số họ có những người đã sống những tháng gần đây nhất ở vùng đất hoang vu này, xây nhà ở đây, học các kỹ năng mới, sử dụng các loại phép thuật của bản thân vốn khó chuyển đổi cách dùng để lao động như nông dân, thợ săn và thợ thủ công thay vì binh lính…hay sát nhân. Những con người như anh em nhà Plainsrunner, như gã Baldur Vassere. Như đám trẻ con bây giờ đang xúm xít quanh cô gái tóc vàng nhà Frost, tất cả họ mặt tái xanh vì sợ hãi.
Tôi nhìn xuống nhóc Seth vẫn đang nằm dưới chân mình, cặp kính méo xệch. Cậu ta, rồi cũng giống như bất kỳ ai khác ở đây, sẽ chẳng là gì hơn mấy túi phân hữu cơ để bón cho vùng hoang mạc cằn cỗi đầy tro tàn này nếu họ bị cuốn vào trận chiến giữa một thằng basilisk tộc Vritra với tổ chiến đội của tụi Wraith.
Và tôi chẳng thể làm gì để ngăn cản chuyện đó cả.
Tôi có sức mạnh, có phép thuật đáng kinh ngạc, ấy vậy mà khi xếp cạnh những sinh vật này, tôi chẳng tỏ ra nguy hiểm gì hơn một con nô lệ không ấn sau lưng cả…
“—yra ơi!”
Tiếng hét gọi tên tôi ngắt ngang làn sương mờ đang che phủ trong tâm trí, và tôi giật mình theo từng cơn một. Cô Seris nắm lấy cánh tay tôi, kéo tôi xoay qua đối mặt với cô ấy. “Tìm cách bình tĩnh lại, Lyra à, tìm cách mà can đảm lên. Dẹp hết mọi nghĩ ngợi đi, giờ nó chẳng giúp ích gì cho cô đâu.”
Tôi nhìn chằm chằm vào mắt cô ấy, đây không phải lần đầu tiên tự hỏi, liệu thứ sức mạnh nội tâm này của cô ta đến từ đâu.
Tôi chưa biết rõ về cô Scythe Seris Vritra trước chiến tranh. Với tư cách là người được đề cử vào vị trí retainer trong thời chiến, tôi chưa từng tham gia câu lạc bộ đó trước khi bị cử đến Dicathen. Nhưng tôi đã chứng tỏ mình là kẻ thành thạo trong việc làm người Dicathen ngoan ngoãn nghe lời mà chỉ gây đổ máu ở mức tối thiểu và điều đó khớp hướng với các mục tiêu của gã Agrona dành cho lục địa này.
(Người dịch: Có lẽ câu này của Lyra đã giúp ta lờ mờ đoán tại sao Lyra còn giữ được họ Dreide, có thể vì đây là retainer được đề cử gấp vào thời chiến như Cadell chuyển gấp thành Scythe nhằm có quyền lực ra lệnh, nên Lyra là retainer duy nhất còn giữ họ từ huyết tộc. ‘Câu lạc bộ đó’ ở đây là chỉ đến các buổi tụ tập cả lũ ‘Scythe và retainer với nhau’ như bức hình do tác giả công bố mà chúng ta đã thấy được mình post cuối chương 442)
Trong vài ngày làm việc cùng cô Seris, tôi liên tục cảm thấy ghen tị về mối quan hệ giữa cô ấy và Cylrit. Tên Scythe của tôi, gã Cadell, luôn lạnh lùng, xa cách và bạo lực. Chỉ trong hai ngày, tôi cảm thấy mình biết về cô Seris còn nhiều hơn những gì từng biết về gã Cadell. Mối quan hệ của tôi với hắn ta chỉ là các vấn đề cần thiết về mặt quân sự và không hơn thế nữa, mặc dù tôi đã ngu ngốc ước ao sức mạnh lẫn phạm vi quyền hạn của hắn, thứ mà gã Chúa tể Tối cao đã cho phép để hắn thực hiện công việc của gã ấy.
Làm như cô Seris đã nói, tôi xếp chồng những suy nghĩ này lại quanh tâm trí mình như gấp tấm chăn nặng dồn vào một góc, về mặt tinh thần thì tương đương với việc một cô nhóc đang kéo chăn lên trùm đầu nhằm núp khỏi lũ quái mana nằm dưới gầm giường…
Nhưng nó có tác dụng thật và tôi cảm thấy mình bình tĩnh lại. Cô Seris có thể không phải là vị Scythe của tôi—đỉnh điểm mà nói, cô ta thậm chí không còn là một Scythe nữa cơ—nhưng cô ấy đã truyền cảm hứng cho tôi, trở thành một người cố vấn giỏi hơn gã Cadell hay bất kỳ giáo viên hoặc huấn luyện viên nào khác mà tôi từng có trong quá trình trèo lên các thang bậc quyền lực.
Không còn thời gian để làm bất kỳ điều gì khác trước khi bọn Wraith đến.
Đám mây tách thành bốn hình dạng riêng biệt và nhiều phép thuật trút xuống chúng tôi cùng một lúc, nhắm vào lão Oludari.
Tôi phóng ra một lớp khiên tạo từ đòn void wind (hư phong) để chặn một cục lửa đen, thiệt hại phụ trợ kéo theo từ nó sẽ không chỉ xảy ra đột ngột với Seris, Cylrit và tôi mà còn với hàng tá người Alacrya khác vẫn đang cố chạy trốn.
Lửa soulfire (hỏa hồn) của tên Wraith này ăn xuyên qua bề mặt cấu tạo tấm khiên của tôi, nhưng có một lớp rào chắn thứ hai xuất hiện ở sau lớp khiên, và rồi có thêm lớp rào thứ ba hỗ trợ cho lớp này, chuyển hướng luồng lửa soulfire đang cuồn cuộn cháy khiến nó lướt qua chúng tôi một cách vô hại trước khi tràn qua ba ngôi nhà mới xây và nhấn chìm chúng ngay tắp lự.
Trong khi chúng tôi vật lộn với ngọn lửa, một đôi tia sét lóe lên, một tia đánh xuống đất vào giữa đám đông đang chạy trốn, hất tung một đám tro đen thẫm lên và đẩy văng những người đứng chỗ mặt đất gần đấy nhất, bao gồm gã Corbett và lão Ector. Tia còn lại đánh thẳng vào lão Oludari nhưng bị lớp khiên chắn bằng mana của lão đẩy chệch hướng đi trước khi đâm vào một cái cây đằng xa, xẻ nó làm đôi và khiến mớ lá khô trên cành cháy như vô số đốm nến nhỏ.
Tiếng ồn từ gỗ cây đang vỡ vụn và các ngọn lửa đang gầm rú vẫn vang vọng trong tai lúc tôi cảm nhận được mana dâng trào từ phía dưới. Cô Seris và Cylrit vốn đang chạy, nay bay lên không và niệm ra những tấm khiên phép che chắn cho những người ngoài cuộc đang la hét. Tôi tóm lấy nhóc Seth và kéo bay lên trời ngay khi mặt đất xung quanh lão Oludari dâng lên, một rừng chông blood iron (huyết sắt) đâm xuyên qua đất khi bọn Wraith tấn công từ mọi hướng cùng một lúc.
Lão Oludari nắm chặt hai tay lại, mớ chông blood iron này vỡ vụn kèm một tiếng rít từ kim loại nghe muốn xé tai. Khuôn mặt lão căng thẳng vì tuyệt vọng và hoảng loạn, khí tức của lão phủ tràn qua ngôi làng như một cơn bão.
Một cái bóng xuất hiện giữa bọn tôi, và ánh mặt trời lóe lên lấp lánh trên hai lưỡi dao được chạm khắc đang chém về phía lão Chúa tể. Tay lão ta vụt lên, chụp lấy thanh kiếm, và bằng một cú giật khi đang nắm chặt tay, lão đã bẻ gãy thanh kiếm. Bàn tay chảy máu của lão khép các ngón lại thọc tới trước như đâm dao, tung ra một đòn lửa soulfire hình bán nguyệt góc cung rộng, suýt chút nữa trúng tôi và nhóc Seth, nhưng tên Wraith kia lại biến mất.
Có một khoảng lặng tạm thời.
Lão Oludari trừng mắt nhìn lên bầu trời, nơi bốn tên Wraith đang quây vòng ngôi làng này từ xa, sát khí của chúng như bốn đống lửa dữ dội đang dần áp sát tấn công chúng tôi. Lão Chúa tể nhăn nhó, bàn tay buông rồi lại nắm chặt trong khi máu đang rỉ ra từ vết cắt nhỏ mà tay lão nhận phải khi nãy. Những sợi gân xanh trông phát bệnh làm đổi màu phần da tái nhợt quanh vết thương chỗ lòng bàn tay.
“Có độc,” tôi thì thầm với chính mình.
Lão Oludari gầm gừ, nhanh chóng lướt mắt nhìn quanh tìm lối thoát. Thái độ của lão đanh lại, ý chí chiến đấu gạt nỗi sợ hãi sang một bên. Lão ta nhăn mặt, lao bắn lên trời vượt qua chỗ tôi đang bay lơ lửng.
Cơ thể lão dài ra và phồng lên vì mana tăng vọt khi con quái vật ẩn trong dạng người này bung cơ thể ra. Chẳng biết bằng cách nào đấy mà giờ lão dường như còn to lớn hơn trước, cú đập cánh dữ dội đến mức làm tôi chao đảo, tiếng gầm thét đủ để khiến tôi nghẹt thở.
Đuôi con quái quất như một cái roi khổng lồ, và một tên Wraith bị đập dìm xuống. Hàm lão này khợp một phát, ngậm lại chỉ ngay sau khi hóa thành dạng này để bay rút lui lên trời. Tên Wraith thứ ba đến từ bên hông, lợi dụng lúc lão Oludari mất tập trung để đáp xuống lưng lão basilisk này với hai lưỡi dao từ băng đen sáng lấp lánh trên tay. Những tia sáng mặt trời cuối cùng lóe lên ở cạnh rìa lưỡi dao khi chúng cắt lướt qua phần gốc của một bên cánh to khổng lồ. Băng vỡ tan ra như thủy tinh, lão basilisk gầm lên xoay tròn trên không trung, hất bay tên Wraith.
Những giọt máu đen sẫm bóng loáng mỡ rơi như mưa xuống khu trại tị nạn phía dưới.
Khi lão Oludari vùng vẫy và gầm lên, có một tấm lưới đen tự dệt nên giữa không trung ngay trước mặt lão, nó ngưng tụ lại từ những sợi blood iron (huyết thép) mỏng đang dính vào những điểm đang tự tích tụ lại thành các bóng đen giữa không khí. Lão basilisk cố tránh nhưng quá muộn và lao hết tốc lực vào tấm lưới kia.
Cơ thể to lớn đẩy lão xuyên qua, phá tan cấu trúc tấm lưới, nhưng ngay cả khi đang bay bên dưới, tôi vẫn thấy được những vết cắt mỏng, đẫm máu hình lưới còn sót lại trên khắp khuôn mặt và cơ thể rắn chắc của lão. Cái lưới blood iron vướng vào cánh và quai hàm lão Oludari, cứ mỗi cử động lão tạo ra lại cưa qua cứa lại, cắt càng sâu vào da hơn.
Hàng chục tia sét hội tụ lại chỗ tấm lưới thép này, gây co giật tàn phá cơ thể đã biến hình của lão Oludari khi chúng lan khắp tấm lưới thép và truyền vào hàng trăm vết thương nhỏ, hai thứ phép thuật tia sét và lưới thép này phối hợp nhau để vượt qua lớp mana bảo vệ bọc ngoài thân của lão Chúa tể. Thêm nhiều đường gân dạng tua rua xanh đầy vẻ bệnh tật lan ra từ những vết cắt trên cánh của lão ta, và mớ băng nặng trĩu đang ngưng tụ dọc tấm lưới thép, sức nặng từ nó kéo lão Chúa tể xuống.
Máu rỉ ra từ những vết cắt đột nhiên bốc cháy, lửa soulfire đốt cháy sắt blood iron và băng đen, làm liền mạch lại các vết thương. Trên mặt đất, khắp những chỗ giọt máu lửa rơi xuống, các giọt máu này vang tiếng xì xèo như gầm lên và đốt cháy mọi thứ xung quanh.
Một làn sương đen xuất hiện lơ lửng trên đầu đám đông, di chuyển nhanh chóng để hấp thụ càng nhiều các đợt mưa máu này càng tốt, phép thuật này của cô Seris vô hiệu hóa khả năng hủy hoại dần dần của các giọt máu trước khi nó kịp lan rộng hơn nữa.
Tuy nhiên, một nửa ngôi làng đã chìm trong đám cháy lớn.
Đường phố bây giờ đầy đống người đang chạy, tỏa ra theo mọi hướng do hoang mang, do thiếu lãnh đạo và do không có sự lèo lái hướng dẫn khi mà mỗi người phải tự lo cho thân mình.
Hàng tá các giọng nói khác nhau hét lên những mệnh lệnh trái ngược nhau, những quý tộc bất lực kêu gào lính canh và người hầu của họ, và qua tất cả những điều đó có thể dễ nhận ra được những người bị thương lẫn những kẻ hấp hối đang rên xiết khi máu của tộc Vritra hóa lửa soulfire chảy lan vào máu của họ.
(Nguyên văn: “and through it all were easily discernible the keening of the wounded and dying as Vritra soulfire coursed through their blood.” Câu này có ẩn ý. Dễ nhận thấy là về nghĩa bóng, người Alacrya gọi dòng họ mình là huyết tộc rồi mong ngóng cơ thể có dòng máu mang huyết thống Vritra, mọi thứ xoay quanh văn hóa của lục địa này đều liên quan tới dòng máu Vritra, thì nay, dòng màu đó lan vào máu của họ theo đúng nghĩa đen lại làm họ bị thương hay hấp hối và rên than sợ hãi, một cảnh tượng khá châm biếm của tác giả)
Lãnh đạo duy nhất đủ giỏi để xứng với danh hiệu này là cô bé nhà Frost, người đã lo gom đám trẻ con lại thành nhóm để chăm sóc và dẫn chúng chạy về phía rừng Beast Glades rồi rời khỏi trận chiến.
Lắc lắc đầu để thoát khỏi vẻ mê mẩn mà mình đang cảm thấy khi xem trận chiến giữa lão chúa tể với bọn Wraith này, tôi đáp bổ xuống mặt đất khô cứng bên dưới và gây lan tỏa một làn sóng âm ra xung quanh, đồng thời đòn phép này kéo nền đất dưới chân cho mềm ra, dưới sức mạnh của tôi tro bụi đang chuyển động như chất lỏng, và tôi dội thứ bùn xám này lên càng nhiều ngọn lửa càng tốt, chôn vùi toàn bộ các ngôi nhà mà tôi không cảm nhận được dấu hiệu mana trong ấy.
Phía trên đầu, lão Oludari áp sát một tên Wraith, rồi há hàm phun ra một dòng lửa đen.
Tên Wraith kia phóng lên trên ngọn lửa, xoay người và lao xuống lưng lão basilisk vốn nhanh nhẹn, hàng tá con dao được tạo ra từ băng đen rơi xuống quanh lão.
Những đòn nào không đánh lão Oludari thì dội liên tục vào lớp phép thuật của cô Seris, hầu hết chúng đều tan biến một cách vô hại, nhưng một số vẫn đủ sức xuyên qua nó để xé nát các tòa nhà và con người bên dưới đang được lớp phép thuật này che chắn. Tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc đứng nhìn những thi thể kia ngã xuống đất, máu chảy ào ạt từ những lỗ thủng xuyên qua người họ.
Lão Oludari rít lên, cả cái cổ dài lẫn đầu lão vặn vẹo ngẫu nhiên trong khi lửa soulfire vẫn tiếp tục tràn ra từ bộ hàm. Còn ở phía dưới, một ngôi nhà khác bốc cháy, rồi lại một ngôi nhà khác nữa. Cơn gió do trận chiến gây ra đã khiến những tia lửa bay đến tận vùng Beast Glades, và tôi thấy được những làn khói nhỏ đang trôi cuộn lên từ khu rừng rậm kia.
Mọi chuyện diễn ra quá nhanh; mọi người vẫn đang tự đứng dậy sau cú dội sét ban đầu. Lão Ector loạng choạng rời khỏi chỗ miệng hố, tay bịt tai, ánh mắt đờ đẫn. Có thứ gì đó phát nổ. Hình ảnh trông như thể đang chiếu chậm vậy, tôi chứng kiến ông ta bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất, một mảnh blood iron (huyết sắt) lởm chởm đâm vào ngực lão. Cơ thể lão ấy đổ nhào ra đất khi rơi xuống, và khi cơ thể ấy ngừng cử động, tôi biết lão đã chết.
Khuôn mặt của đám đông mờ đi, các nét mặt bị nhòe mất trong làn khói và bóng tối. Ai đó đang lao ra từ ngọn lửa đen, tiếng hét nghẹn lại khi oxy trong phổi bị đốt cháy. Một người khác bị chôn vùi khi căn nhà sụp đổ ngay lúc người này chạy ngang qua, bức tường căn nhà đấy đã nuốt chửng người này.
Ở chỗ rìa khu trại tị nạn này, những bóng người nhỏ bé đang tràn vào vùng Hoang Mạc Elenoir, vốn là những khoảng không xám xịt phẳng lặng.
Tôi quẳng một tấm khiên khác ra chặn khi có cơn gió thổi qua lùa ngọn lửa từ tòa nhà gần đó lan đến sát một nhóm dân làng đang rút lui, giúp họ có thời gian lê thân ra khỏi chỗ đấy.
Tôi tìm kiếm cô Seris trong tình trạng hỗn loạn này, hy vọng nhận được vài lời hướng dẫn hay phương hướng chỉ đạo nào đấy, nhưng thay vào đó, những gì tôi đang thấy cứ như có bàn tay băng giá nào đấy bóp quanh trái tim đang thình thịch đập điên cuồng của mình.
Cylrit đang đỡ cô Seris đứng lên, cánh tay anh ta vòng qua eo của cô trong khi cô ấy liên tiếp sử dụng các chú phép void wind (hư phong) của mình, một tay cô quàng qua cổ anh, tay kia điều khiển màn sương vẫy qua gạt lại giống như người chỉ huy dàn nhạc, hấp thụ và loại bỏ nhiều đòn phép lạc đạn nhất có thể.
Nhưng…cô ấy chỉ vừa mới đến Dicathen và đã bị suy yếu sau những đợt chịu đựng kéo dài ở Khu Tàn Tích. Tôi đã biết điều đó. Nhưng trước đây tôi không thực sự hiểu còn giờ thì tôi đã rõ.
Cô ấyđã không trưng ra ngoài cho bất kỳ ai thấy sự thật này, cố duy trì thể hiện bộ mặt trước cả thế giới là kiên nhẫn chịu đựng và có năng lực. Nhưng cả đời luyện tập để dựng nên vẻ ngoài mạnh mẽ cũng chẳng sửa được một cái lõi mana bị vắt kiệt quệ đâu. Và thuật void wind độc nhất của cô ấy tốn một lượng mana đáng kể để tạo thành chú phép, đến mức cô ấy phải đẩy bản thân vào thế sắp phải chịu sốc phản vệ khi chống lại những phép thuật mạnh mẽ như vậy.
Và cuộc chiến chỉ vừa mới bắt đầu thôi.
Đây là lúc tôi thực sự hiểu được hoàn cảnh hiện tại của bọn tôi.
Lão Oludari rất mạnh mẽ—là một asura thuần chủng—nhưng lão này không phải chiến binh. Ngay hiện giờ, tôi đã cảm nhận được sức lực của lão ta đang suy giảm, sự tuyệt vọng của lão đang tăng lên. Những tia tua rua màu xanh lục nhìn phát bệnh đang làm nhạt đi màu lớp vảy đen trên người lão, thứ này tỏa ra lượng mana khó chịu khiến dạ dày tôi quặn thắt, và tôi biết nó hẳn là một loại chất độc nào đó, thậm chí có khi nó còn được sản xuất đặc biệt cho mục đích tấn công lần này…
Rõ là bọn Wraith sẽ làm những gì chúng vốn được huấn luyện để làm. Ngay cả khi lão Oludari có cân được cùng lúc hai hay ba tên, thì vẫn luôn có tên thứ tư đánh trúng gã Chúa tể, đòn tấn công và phòng thủ của chúng đan xen nhau thành một bản hòa tấu đầy mê hoặc giữa việc gây sát thương và giết chóc. Chẳng có cách nào lão Oludari thắng nổi. Chúng sẽ giết lão, và bọn tôi không thể làm gì để ngăn chúng lại.
Rồi thì sau đó chúng sẽ quay sang bọn tôi.
Ý nghĩ điên cuồng tìm đến Arthur để nhờ giúp đỡ lóe lên trong đầu, nhưng tôi biết đó là điều không thể. Cậu ấy đang ở rất xa tận Etistin, và tôi không có cách nào để—
“Seris!” Vẫn ôm nhóc Seth bên cạnh, tôi bay tới chỗ cô ấy, tránh một cây gai đen bị gãy lao vút qua không trung từ phía trên xuống. “Thiết bị dịch chuyển di động, ở đâu—”
Cô ấy rút một cây trâm cài ra khỏi áo choàng và ném cho tôi. Tôi lập tức truyền mana vào nó, cảm nhận mớ đồ chứa bên trong. Trong số nhiều loại vật dụng và đồ đạc có thiết bị dịch chuyển di động, tôi rút nó ra và lao xuống đất, thả nhóc Seth Milview đang nghẹt thở ra để tập trung vào vật tạo tác này.
Nó là một vật rất mạnh, đủ khả năng đi từ lục địa này sang lục địa khác. Sẽ chẳng gặp vấn đề gì với chuyện nó đưa tôi đến cung điện ở thành phố Etistin, nơi tôi chỉ cần tìm Arthur. Nhưng chuyện này sẽ kéo dài trong bao lâu đây? Một phút? Hai phút ư? Hay mười?
Liệu có ai ở đây còn sống vào lúc tôi—
Ngay khi mana của tôi kích hoạt và hiệu chỉnh thiết bị dịch chuyển di động, một cái bóng xuất hiện trước mặt tôi, ném món vật tạo tác này vào một chỗ tối mịt hơn cả màn sương lớp khói đang hiện ra ở nơi này.
Tim tôi chỉ vừa kịp nhói đau một nhịp khi nhìn vào khuôn mặt tái nhợt hom hem trông như cái rìu vừa hiện ra đối diện với mình trước khi hắn tung một cú đá vào ngực tôi.
Vùng không khí giữa hai chúng tôi như bị méo đi, những lằn đen gây rung động âm thanh gợn sóng hiện rõ lên trong giây lát trước khi cú đạp của hắn giáng xuống, đập vỡ tan lớp mana phòng thủ của tôi.
Thế giới xung quanh bị kéo xa ra khỏi tôi—hoặc tôi đang bị kéo xa ra khỏi nó—và không gian dường như lao vút đi trong tích tắc.
Tôi văng mạnh người xuống đất, lăn lộn như một con búp bê vải.
Lõi tôi đau nhức vì lực va chạm trong lúc tôi theo bản năng mình cảm nhận lượng mana trong người, chộp lấy mặt đất kéo nó lên và bao quanh thân, tạo thành một lớp rào đệm để ngừng cú lăn lộn điên cuồng này lại. Trước khi đầu kịp tỉnh táo hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi đã đứng dậy bay về hướng thiết bị dịch chuyển bị hất văng đi và thằng Wraith kia đang đứng dẫm lên nó rồi.
Hắn giơ ngón trỏ của bàn tay phải lên, lúc lắc qua lại như đang quở trách một đứa trẻ nghịch ngợm. Sau đó, những lưỡi kiếm băng ma thuật đen do hắn niệm ra quét xuống, cà xuyên qua thiết bị dịch chuyển dễ như cắt khối bơ mềm.
Chỉ cách đó vài bước chân, nhóc Seth đứng như tê liệt—nhưng không, cậu bé không bị đông cứng người. Cậu ta đang cử động… niệm phép ư, truyền mana vào ấn của mình. Ánh sáng xanh lam tràn ra khỏi cơ thể cậu nhóc, tạo thành một lớp khiên chắn ma thuật mạnh mẽ vươn rộng ra vài feet về mọi hướng tính từ chỗ lõi cậu bé. Một ấn emblem của pháp sư hệ Shield ư? Nhưng dường như điều này không đúng…
Lớp khiên chắn va vào tên Wraith khi nó phồng lên, đẩy hắn lùi lại nửa bước. Một nụ cười khinh bỉ lạnh lùng hiện lên trên khuôn mặt giống như cái rìu kia, và sau đó lưỡi kiếm của hắn vung lên.
Tôi giơ hai bàn tay ra, kéo đất đá từ mớ tro bụi cằn cỗi phía ngoài tấm khiên của nhóc Seth lên và tạo ra một trường tĩnh điện có khả năng hấp thụ kèm theo, nhưng lưỡi kiếm kia quá nhanh, quá mạnh. Nó cắt xuyên qua cả hai loại phép thuật đang dần hình thành được một nửa của tôi, rồi đụng vào lớp khiên chắn màu xanh lam.
Phép thuật của nhóc Seth vỡ tan, sức mạnh từ nó đẩy cậu nhóc văng ra đất phía dưới chỗ tôi đang bay, những lưỡi dao tạo từ băng mờ nhòe đi trong không khí vì bay nhanh tới chỗ cậu bé vừa đứng ban nãy.
Trong khoảng chừng một giây rảnh mà tôi có để phản ứng, tôi cân nhắc xem liệu có thể bảo vệ cậu nhóc này hay không. Có đáng từ bỏ mạng sống của mình để trì hoãn cái chết trong chớp mắt của thằng bé hay không? Nếu tôi bỏ chạy, có lẽ tên Wraith này sẽ dí theo tôi thay vì tập trung vào cậu bé, kẻ chẳng đáng gì trong mắt lũ Wraith.
Có lẽ ít nhất cũng một lần, tôi đã nghĩ mình nên tự tay giết cậu nhóc đi, chỉ để xóa bỏ sự xao nhãng này…
Gai ốc sởn lên khắp người và tôi nhảy tới chỗ nhóc Seth đang nằm rồi cúi xuống, giơ cánh tay lên để truyền mana mà không tạo ra câu chú phép nào cả. Tôi nuốt khan, một lượng cảm xúc dồi dào nào đó trong tôi đang vơi dần. Mặc dù tôi không hy vọng bảo vệ được cậu bé nhưng tôi cũng chẳng thể nào không làm gì cả. Ít nhất cậu ta sẽ chết khi biết tôi cũng đã gắng cứu…
Tên Wraith nghiêng đầu nhìn tôi. Đôi mắt đỏ như máu, tăm tối và vô hồn, tràn ngập vẻ… có phải là sự thương hại mà tôi đã thấy đang phản chiếu ngược lại mình trong đôi mắt ấy không cơ chứ? Sau khi có một nụ cười khinh bỉ khác, hắn vọt lên không trung và lao về phía trận chiến với gã Oludari.
Xoay người lại bằng đầu gối, tôi cảm nhận cổ, gương mặt của cậu bé, tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu sự sống nào nhưng lòng lại đang nghĩ đến điều tệ nhất. Không có hơi thở, không có mạch, không có sự phập phồng lên xuống ở lồng ngực—
Vết sưng tấy mờ mờ trên người cậu bé phồng lên ấn ngược vào đầu ngón tay tôi, và tôi nhắm mắt lại nhẹ nhõm. Cậu bé vẫn còn sống, nhưng bất tỉnh, lõi cậu ta đang gào thét khi phải chịu cơn sốc phản vệ từ việc truyền dẫn một chú phép mạnh mẽ như vậy qua ấn của mình.
Một tiếng gầm khiến đất trời rung chuyển, làm mắt tôi mở vội ra và ngó giật lên trời.
Lão Oludari đang rơi, lao chúi từ không trung xuống, những vết rách trên màng cánh do bị chém đang bay phấp phới trước cơn gió ào ào khi lão rơi lướt qua, máu rỉ ra từ hàng ngàn vết thương trên cơ thể to khổng lồ của lão ấy. Không còn vẻ đáng sợ dọa nạt nữa, thay vào đó hình dạng basilisk bị thương của lão lại khiến tôi cảm thấy kinh hãi khủng khiếp, giống như một lá cờ rách nát tả tơi đang rơi xuống và đánh dấu sự kết thúc cho trận chiến này.
Khi lão ta chạm đất, cứ như thiên thạch dội vậy. Hàng tá tòa nhà biến mất dưới thân hình đồ sộ này trước khi đám khói sinh ra từ tro bụi nuốt chửng lão. Bốn bóng người màu đen bay theo đội hình phía trên không, vây quanh chỗ lão basilisk kia vừa rơi xuống trước khi trôi chầm chậm đáp xuống mặt đất.
Cô Seris và Cylrit cũng làm điều tương tự bên cạnh tôi. Cylrit dường như đang gánh phần lớn trọng lượng người cô ấy. Làn da xám của anh ấy gần như trắng bệch, và có một lớp mồ hôi mỏng bóng loáng trên trán. Anh ta, cũng giống như cô Scythe mà anh đang bảo vệ, đã đẩy bản thân mình đến cực hạn.
Chúng tôi đang ở đây một mình, hoặc gần như vậy. Mọi người khác đều đã chạy trốn, ít ra là những ai làm được thế. Quá nhiều người, rất nhiều người, đã bỏ mạng trong trận bắn phá loạn xạ này. Với một cái nhìn mệt mỏi, tôi đã tìm ra xác của lão Ector Ainsworth, cả hai anh em nhà Plainsrunner và gã Anvald Torpor. Có những người khác mà tôi không dễ nhận diện được. Và đó chỉ mới là không gian ngay xung quanh tôi thôi đấy.
Khắp trại tị nạn đã có bao nhiêu người chết rồi? Tôi băn khoăn tự hỏi, rồi gạt câu đó đi khỏi đầu mình.
Tôi cảm nhận được mana trong không khí thay đổi khi lão Oludari trở lại dạng người. Bóng lão ấy xuất hiện qua lớp tro khi lão ho và vấp ngã lúc thoát khỏi đống đổ nát do cú ngã của lão tạo ra. Bọn Wraith đang đứng sẵn đợi lão.
“L-làm ơn đi,” lão ho khù khụ, nghe có vẻ vô cùng thảm hại. “Ta sẽ quay lại, ta sẽ quay lại mà, chỉ là đừng…đừng…” Lão té khuỵu gối xuống, ho thành từng cơn, cơ thể gầy gò của lão ta bị tàn phá đến khủng khiếp. Máu vẫn đang chảy ra từ hàng chục vết thương, cơ thể hoàn toàn bị bao phủ bởi những sợi gân xanh làm da thịt chuyển cả màu. “Đừng giết ta,” lão kết thúc câu nói với vẻ yếu ớt.
Một tên trong số bọn Wraith, là một ả đàn bà lướt thướt, uyển chuyển trong bộ đồ da phối với giáp xích pha hai màu đen và xám, tặc lưỡi một cái. Ả ta vuốt các ngón tay lên đầu như lược để gạt mái tóc đen nhánh ra khỏi mặt, vắt mớ tóc qua một trong mấy sừng mọc từ trán cong ngược ra sau và tiến một bước về phía lão Chúa tể. Lão ấy rùng mình, còn ả này thì cười thầm với vẻ tăm tối.
“Ôi Chúa tể vĩ đại, mạng sống của ngài chưa thuộc chúng tôi ngày hôm nay đâu.” Bàn tay ả vươn nhanh ra và nắm lấy một chiếc sừng của lão. “Mặc dù bọn tôi không bị yêu cầu phải mang ngài trở lại nguyên vẹn, nhưng ngài có nên nghĩ đến việc thách thức bọn này thêm hay không đây.”
Tia sét đen nổ lách tách từ chỗ nắm tay của ả, nhảy xuống chiếc sừng và chạy vào đầu lão Oludari. Lão ta rên rỉ, đôi mắt trợn ngược và ngã xuống đất bất tỉnh.
Ả Wraith tỏ vẻ chế giễu và quay đi, đôi mắt đỏ thẫm, tăm tối đến mức gần như chuyển hẳn thành màu đen, đôi mắt ấy lục tìm quanh ngôi làng và ả này đáp xuống chỗ tôi, Cylrit và cô Seris. Ả ta bắt đầu đi bộ về phía chúng tôi, rảo bước thản nhiên như thể đang đi dạo dọc Đại lộ Trung tâm ở Thành phố Cargidan.
Thằng Wraith mặt rìu, kẻ đã phá hủy thiết bị dịch chuyển di động, tiến đến sau lưng ả và nhấc bổng lão asura kia lên, ném lão qua một bên vai. Hai tên còn lại di chuyển đến cạnh hắn, và lần đầu tiên tôi nhìn rõ được chúng. Một tên bị mất một cánh tay còn nửa bên mặt bị nứt, đen và chảy máu. Tên còn lại có máu rỉ ra từ mắt và biểu cảm trống không trên khuôn mặt dẫu sao cũng có vẻ kiên cường của hắn.
Ít nhất thì lão Oludari cũng không đến nỗi bị hạ gục mà chẳng chiến đấu, tôi mơ hồ nghĩ vậy, ngay tức khắc nhận ra rằng thật kỳ lạ khi nhận thấy mình đang đứng về phe lão Chúa tể kia.
“Ả Seris Kẻ Vô Huyết Thống. Lũ retainer Cylrit và Lyra.” Cô ả mỉm cười, để lộ những chiếc răng nanh thon dài, rồi liếc quanh nhìn đống đổ nát của ngôi làng đang âm ỉ cháy. “Chuyện này thú vị đấy.”
Cylrit chĩa lưỡi kiếm của mình vào ả Wraith, anh ta ép khí tức của mình bốc ra ngoài để tăng thêm độ nặng cho lời lẽ của bản thân khi nói: “Hãy quay về với bóng tối của các ngươi, lũ ma kia. Thực tế rằng việc bọn ta vẫn còn thở báo cho ta biết chủ nhân của các ngươi không hề ra lệnh cho các ngươi đến cắn, chỉ đến để nhe răng thôi.”
(Nguyên văn: “…his intent pressing outward to add weight to his words as he said,…” Câu này tác giả dùng từ ‘pressing outward’ với ngụ ý “Cylrit đuối lắm rồi nhưng cũng phải cố gồng lên mà dọa”)
Nụ cười của ả rắn nét lại trở thành vẻ gì đó trông nguy hiểm hơn khi ả lướt lưỡi qua một bên răng nanh nhô ra. “Mày nói đúng, mặc dù tao không tin rằng sợi xích đang cột tao vẫn còn nguyên nếu mày sủa tiếp đâu, cậu bé à. Sự thất vọng của Chúa tể Tối cao sẽ… nhẹ đi nhất có thể nếu tao trở về với mấy cái đầu bọn mày cắm sẵn đầy vẻ kiêu hãnh trên bộ sừng của vị Chúa tể đây.”
(Người dịch: Việc con ả Perhata gọi Cylrit là “cậu bé” không biết chỉ là nói giỡn thông thường vì chênh lệch thực lực hay thực sự tuổi Cylrit chỉ là nhóc con so với đám Wraith, cũng không ai biết bọn này đã tồn tại bao nhiêu năm)
“Perhata, đừng nghịch đồ ăn nữa,” tên Wraith mặt rìu hét lên. “Chúng ta đã có được thứ mình muốn và những người khác đang cần được chữa trị.”
(Nguyên văn: “Perhata, quit playing with your food,” Câu nói này ở phương tây là câu quen thuộc của mẹ nói với con nít hay của chủ nói với chó mèo nuôi trong nhà. Điều này muốn ám chỉ nhiều thứ: Một là lũ Wraith chỉ xem ba người này như con mồi, hai là chỉ sự trung thành của bọn này như chó với chủ là Agrona)
“Chỉ có mỗi một cánh tay thôi mà,” tên Wraith bị bỏng càu nhàu, nhìn xuống bên phần tay bị hủy hoại của mình. “Tao vẫn dọn sạch được ba đứa phản bội này nếu—”
Ả đàn bà, tên Perhata, giơ tay lên ngăn lời và những tên khác im lặng. “Có thể tạm nói rằng, chiến thắng đã vụt thoát khỏi gọng hàm của sự thất bại. Bọn tao thậm chí còn chưa nghe nói gì đến chuyến bay khỏi Alacrya của lão Oludari lúc bọn này cảm nhận được lão ta đang lảng vảng ở Beast Glades. Nếu thằng bạn người Dicathen của chúng mày, thằng Lance kia, không gây gián đoạn công việc trước đấy của bọn tao, thì bọn này có thể đã không đến đây kịp lúc.” Nụ cười nhe ra của ả còn sắc bén hơn nữa, giống như một nhát dao vạch ngang lên gương mặt ả. “Thật sự thì, nếu không có thằng Lance kia—tên là Arthur Leywin à?—vài con rồng sẽ chết, nhưng sẽ có rất nhiều người Alacrya còn sống.”
Tôi chế giễu. “Nếu ngươi không có ý định giết bọn ta, thì tốt nhất ngươi nên lên đường. Rốt cuộc, ngươi đâu muốn mạo hiểm đối đầu trực diện với Arthur, phải không?
Seris ném cho tôi một cái nhìn cảnh cáo, nhưng máu tôi đang sôi phừng phừng lên quá nóng đến nỗi không cảm nhận được sự quở trách nữa. “Ta nhận ra tên của ngươi rồi, Wraith à. Đó là cái tên mà ngay cả gã Cadell cũng nói với tông giọng sợ hãi. Kẻ có tên giữa vô số những kẻ không tên không mặt mũi…các ngươi hẳn phải là một nỗi kinh hoàng đích thực trên chiến trường. Ấy vậy mà, ta để ý thấy các ngươi chỉ có bốn người—à, ba người rưỡi thôi. Ta luôn nghĩ rằng thường một tổ chiến đội được định là có năm tên Wraith chứ? Thậm chí các ngươi còn không bảo vệ nổi tổ chiến đội của mình trước ngài Godspell phải không?”
Thằng mặt rìu kia tiến vài bước hung hãn về trước. “Cái thằng mà mày luôn nghĩ tới còn thấp giá hơn cái giẻ mà tao hay dùng để chùi đít, con cặn bã kia.”
Con ả Perhata lại ra hiệu im lặng thêm lần nữa. Ả ta hơi nghiêng đầu lúc nhìn cô Seris. Khi một lọn tóc đen rơi xuống, ả này lại nhấc nó đặt ra sau cặp sừng của mình. “Hôm nay tụi mày được tha. Đám lính này vẫn thuộc về ngài Agrona và bọn mày là tướng của chúng. Chẳng bao lâu nữa, sẽ lại cần đến chúng. Thời gian chơi trò đóng giả làm nông dân và thống đốc của bãi nước đọng đã kết thúc rồi. Khi ngài Agrona ra lệnh, tụi mày và lực lượng của tụi mày sẽ hành quân. Chúng sẽ chiến đấu vì ngài ấy, bởi vì nếu không, ngài Agrona sẽ đốt cháy lõi mọi thành viên thuộc mọi huyết tộc phản bội ở cả hai bên đầu đại dương.”
Ả ta bước tới trước cho đến khi lưỡi kiếm của Cylrit ấn vào xương ức của ả. Nội sự hiện diện của con ả này thôi cũng đủ khiến đầu gối tôi run rẩy.
Cặp mắt ả nhìn ghim vào mắt cô Seris. “Riêng cá nhân tao, tao hy vọng mày sẽ thách thức ngài ấy. Tao sẽ cầu xin được trở thành kẻ quay lại đây và lôi toạc cái lõi của mày ra khỏi lồng ngực, đồ Vô Huyết thống à, vì mày chỉ còn là cái bóng của chính mày trước đây. Nhưng thực tế là tất cả chúng ta đều biết rằng mày sẽ không làm vậy. Mày không thể. Khi ngài Agrona ra lệnh, tụi mày sẽ trả lời. Đó là cách duy nhất.” Nhẹ nhàng thoải mái, ả đưa tay lên và nắm quanh thanh kiếm của Cylrit. Bằng một cú vặn nhẹ, lưỡi kiếm vỡ tan.
(Người dịch: Cụm từ “Unblooded” chỗ này nói với hai ý, ý một như mình đã dịch nghĩa là “Không còn huyết tộc,” vốn là cách Agrona gọi tên Seris sau khi phản bội, ý còn lại là khi con Perhata này lôi lõi Seris ra thì còn chẳng thấy chảy máu đâu)
Cylrit thở hổn hển và thả chuôi kiếm xuống nền đất bằng tro đóng cứng lại, nhìn chằm chằm vào bàn tay run rẩy của mình với vẻ hoài nghi.
Con ả Perhata nói tiếp: “Sớm gặp nhé,” lùi vài bước trước khi quay lại và ra hiệu cho mấy tên Wraith khác.
Bốn đứa bọn chúng bay lên không trung và tăng tốc về phía bắc băng qua vùng hoang mạc kia, biến mất trong vài giây. Tuy nhiên, uy áp từ mana của bọn chúng lưu lại đây kéo dài lâu hơn nhiều và khi nó vơi bớt, chỉ để lại sự trống rỗng theo sau.
Cô Seris chùng người xuống, và Cylrit vội đặt cô ta nhẹ nhàng nằm xuống đất. Đôi mắt cô ấy nhắm lại, hơi thở khó khăn.
Ánh nhìn Cylrit chạm mắt tôi. “Đi đi. Kể cho Arthur nghe chuyện gì đã xảy ra. Tôi sẽ—”
Cô Seris nhấc tay lên, khiến Cylrit im lặng khi anh ta quỳ xuống bên cạnh. Cô ấy mở lòng bàn tay ra, để lộ một chiếc đĩa có đường kính khoảng một inch rưỡi. Nó màu trắng vàng và có một cổ tự được khắc trên đó. Từ việc cổ tự có màu nâu hơi ngả sang đỏ, có lẽ nó được in bằng máu.
Cô Seris nói: “Đưa cái này…cho Arthur,” giọng khàn đi vì mệt mỏi.
Tôi cẩn thận lấy chiếc đĩa từ tay cô ấy, nhớ lại vẻ mặt đau đớn của cô Seris khi lão Oludari bóp chặt tay cô ấy trong lòng bàn tay lão. Bây giờ tôi đã biết, là để đưa cho cô ấy thứ này.
Đứng dậy, tôi quay lưng lại với Cylrit và cô Seris rồi sém dẫm phải nhóc Seth Milview, người vừa mới bắt đầu cựa quậy. Khi tôi phát ra một xung mana âm thanh, sóng không khí giữa hai chúng tôi rung chuyển và cậu ta giật mình tỉnh giấc.
Tôi giơ một tay lên, chặn trước bất kỳ nỗ lực cố cất thành lời nào mà cậu bé đang thực hiện. “Seth. Người dân ở đây cần được giúp đỡ. Bằng bất cứ thân thể nào còn giúp được. Nhiều người đã chạy trốn vào hoang mạc hoặc hướng tới các khu trại định cư lân cận. Một số khác đã đi vào rừng. Hãy tập hợp mọi người trong khả năng của mình và đem họ quay lại đây để dọn sạch làng.”
Đôi mắt mở to của cậu ta nheo lại khi gắng hiểu. Tôi phản ứng bằng cách tung ra một xung rung động thứ hai, và cậu ta la lên rồi nhảy bật dậy.
“Điều này quan trọng, Seth à. Con làm được không?”
Cậu ấy nuốt ực nước bọt thấy rõ, rồi gật đầu.
Tôi giơ tay ra chỉnh lại cặp kính đang đeo lệch nửa bên trên khuôn mặt của cậu nhóc. “Tốt.”
Chân tôi rời khỏi mặt đất khi mana nâng người lên không trung, và trong vài giây, tôi tăng tốc thật nhanh vượt qua vùng Beast Glades để lao vội về phía cổng dịch chuyển tức thời gần nhất, những lời của con ả Wraith kia vẫn vang vọng trong đầu.
“Khi ngài Agrona ra lệnh, tụi mày sẽ trả lời.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
- 1. Tóm tắt: Cuộc chống đỡ đội Wraith dưới góc nhìn của Lyra.
- 2. Những người xác định chết chap này: lão Ector Ainsworth, hai anh em nhà Plainsrunner và gã Anvald Torpor.
- 3. Nếu các bạn để ý thì tổ đội Wraith có 5 tên, 1 tên làm chim mồi dụ Art và tự sát ở Estitin từ chap trước, nên thực ra Oludari, Seris, Cylrit, Lyra chỉ chống cự có 4 tên đội Wraith thôi (chính xác là 3,5 tên) mà còn sắp hấp hối, điều này chứng tỏ độ đáng sợ của đội Wraith. Cũng xác nhận điều mà Seris đã nói về Ceara rất lâu về trước là “Đến Chúa tể Tối cao còn phải dè chừng đám này”
- 4. Ver.1: Nov-2nd-2023; ver.2: Nov-15th; ver.3: Nov-17th;