Vị khách không mời
Tên gốc: "Chapter 423: Unexpected Visitor"
Lúc tôi bước ra khỏi cổng dịch chuyển thoát Khu Tàn Tích vào phòng của nhà mình ở thành phố Vildorial thì những người khác đã tản ra khắp nhà. Nhóc Boo đang trong bếp húp xì xụp thứ gì đó từ cái nồi bằng gang, còn bé Ellie thì được mẹ ôm. Chị Mica đã nhào lên nằm trên ghế đi văng, chẳng buồn để ý là người chị đang dính máu và bẩn thỉu ra sao. Ả Lyra đang đứng gần chỗ lò sưởi nhỏ ở đầu bên kia phòng khách, khoanh tay và ánh mắt nhìn xa xăm.
Mẹ thả người bé Ellie ra và lùi lại vừa đủ để lấy hai tay ôm mặt nhỏ em tôi, quan sát kỹ lưỡng. “Con đã trở lại nguyên vẹn…”
Bé Ellie phàn nàn: “Mẹ, mẹ đang làm con xấu hổ trước mặt một retainer và một tướng Lance đấy,” cố vùng vẫy thoát khỏi vòng tay của mẹ trong vô vọng. “Con ổn mà, con hứa. Ý con là, à thì, con đã chết cỡ mười lần rồi, nhưng…”
“Cái gì?” Mẹ thốt lên, ngó từ Ellie sang tôi đầy ngờ vực rồi lại nhìn con bé.
Tôi nói: “Rõ là con bé còn nguyên vẹn như con đã hứa mà,” và nhìn con em mình tỏ vẻ cảnh cáo. Khi nói vậy chưa làm dịu ngay được cơn lo lắng dữ dội của mẹ, tôi mỉm cười với mẹ và ôm lấy bà ấy một cái. “Dù sao thì ta đi bao lâu rồi ấy nhỉ? Ở trong Khu Tàn Tích luôn có cảm giác lâu hơn ở đây nhiều.”
“Vài ngày,” Mẹ trả lời, liếc nhìn bé Ellie cho thấy rằng bà ấy vẫn chưa nói xong cái vụ “chết mười lần” đâu. “Dẫu vậy ở đây cũng bận lắm. Ngài Bairon đã đến đây nhiều lần để xem con trở về hay chưa. Hiển nhiên là một vị khách rất quan trọng nào đấy đang đợi con ở cung điện. Và nếu thành thật mà nói thì ông Gideon khiến mẹ phát điên lên một chút. Ông ấy hoàn toàn điên cuồng muốn nghiên cứu thêm bất kỳ tiến bộ gì mà Ellie đã đạt được.”
Em gái tôi ngồi sụp xuống cái ghế mà mẹ yêu thích và chuẩn bị hất đôi ủng lên chỗ gác chân, nhưng con nhóc đứng hình khi mẹ nhướng mày lên. Cười áy náy một cái, nó tháo đôi bốt bẩn ra và cẩn thận đặt chúng sang một bên, rồi ngả người ra sau và gác chân lên. “Ông ấy sẽ phát cuồng khi thấy mọi thứ con sẽ làm được. Con cá là ổng sẽ ngạc nhiên đến mức lông mày sẽ rụng tiếp cho xem.”
Tôi lắc đầu trước câu đùa giỡn của em mình, nhưng vẫn tập trung vào những gì Mẹ đã nói trước đó. “Vị khách quan trọng này là ai vậy? Mẹ có biết tý gì không?”
Mẹ thở dài và nhún vai. “Không, anh tướng ấy cũng chẳng nói gì nhiều với mẹ, cứ khăng khăng rằng con phải đến cung điện liền lập tức khi trở về.” Miệng mẹ mím ngang thành một lằn mỏng trên mặt, để lộ sự bực mình. “Mẹ đã nói với cậu ấy rằng mẹ có thể là mẹ của con, nhưng mẹ sẽ không ra lệnh cho con. Mẹ cũng nhắc cậu ta rằng con có thể sẽ mệt và cần một bữa ăn nhà nấu thật ngon sau khi đi lang thang lâu đến mức chẳng ai biết được trong Khu…”
“Mẹ à,” tôi nói, cười nhẹ. “Con không sao đâu. Cảm ơn mẹ. Con sẽ đi gặp anh ấy ngay lập tức.” Tôi quay sang mấy người bạn đồng hành của mình. “Chị Mica, chị thoải mái thích làm gì thì làm. Ellie, em nên tắm rửa sạch sẽ và nghỉ ngơi một chút đi. Đừng để lão Gideon gây áp lực cho mình, nhưng hãy chạy qua tìm ông ấy và chị Emily khi em sẵn sàng tóm tắt cho họ về chuyện ở Khu Tàn Tích.”
“Rồi rồi, đội trưởng à,” con bé nói với giọng mỉa mai, chào tôi bằng cách giơ hai ngón lên sát thái dương.
“Vâng Tướng quân,” chị Mica lẩm bẩm với vẻ ngái ngủ.
Ả Lyra hỏi: “Còn tôi thì sao, thưa ngài Quản quan Leywin?” buông thỏng hai cánh tay và đứng thẳng hơn, dáng người cô ả phô vẻ thách thức. “Ngài sẽ hộ tống tôi trở lại phòng giam chứ?”
Sự căng thẳng lơ lửng trong không khí nơi đây như thể chỗ này có vùng tĩnh điện. Dĩ nhiên, làm thế sẽ là cách an toàn. Vô hiệu hóa lõi cô ả và đưa cô ta ra xét xử vì tội ác của mình là điều hoàn toàn chính đáng. Cô ấy sẽ luôn được nhớ đến với tư cách là một người lục địa Alacrya đã đem diễu hành xác chết các vị vua và hoàng hậu của lục địa Dicathen từ thành phố này sang thành phố khác trong khi ca ngợi Gia tộc Vritra vì lòng tốt và thiện chí của chúng.
“Để cô có thể nghỉ ngơi sao? Không đâu, tôi sẽ không tha nhẹ cô dễ thế đâu,” tôi nói. “Tôi sẽ cử cô đi qua chỗ pháo đài Bức Tường để kiểm tra người phe cô, xem họ cần gì. Hãy coi đó vừa là sự trừng phạt vừa là sự bồi thường cho tội ác của cô đối với lục địa này.” Còn với chị Mica thì tôi nói: “Hãy thu xếp phương tiện đi lại. Cô Lyra thuộc Thượng huyết tộc Dreide có thể tự do di chuyển giữa Vùng hoang mạc Elenoir và thành phố Vildorial.” Tôi quay lại nhìn ả Lyra. “Chỉ ở đó thôi, hiểu chưa? Đây không phải là tự do đâu.”
Ả Lyra nâng cằm lên khi nhìn tôi. “Tôi hiểu, thưa ngài Quản quan. Tôi xin nhận hình phạt này và bằng lòng với một cơ hội nhằm hỗ trợ cả người dân của ngài và của tôi.”
“Tôi muốn cô đại diện cho người dân của cô trên lục địa này,” tôi nói, giọng dịu đi chút nào đấy. “Những người lính ở Vùng hoang mạc nên biết rằng họ không bị bỏ quên. Nhưng mọi chuyện đã làm cũng không được tha thứ.”
Chị Mica đã ngồi xem cuộc trò chuyện này diễn ra với cái cau mày càng lúc càng nhăn.
Tôi hỏi: “Có vấn đề gì à?” nói với người đồng nghiệp cùng làm tướng Lance của mình.
“Không, chỉ đang suy nghĩ thôi. Mọi thứ có thể hơi nhàm chán xíu nếu ta thực sự dùng cách giết dần giết mòn ả Alacrya gầy nhom này khi xích ả vào vùng Beast Glades.”
Ả Lyra khịt mũi và đảo mắt chán chường. “Lục địa này có nhiều mặt tích cực, nhưng với cương vị là kẻ tra tấn và cai ngục, thì cô thiếu sót kinh nghiệm đến khốn khổ.” Cô ả mím môi nghĩ ngợi. “Tuy nhiên, tôi cho rằng đây không phải điều tệ đâu.”
Cả hai người họ lại chìm vào cuộc cãi vã quen thuộc trong khi đang bước đến cửa ra khỏi nhà mẹ tôi. Ngay trước khi cửa sau lưng họ đóng lại, ả Lyra chạm mắt tôi. Cô ta khẽ cúi đầu chào rồi đóng cửa.
Con nhóc Ellie nhếch mép cười. “Ai mà ngờ được, vị tướng Lance Godspell (Thánh Phép) vĩ đại đây lại để lộ mặt yếu đuối của mình trước kẻ thù.”
“Đó là một hình phạt,” tôi nói, lườm em gái mình.
Mẹ tựa đầu vào vai tôi. “Với hết thảy các trọng trách của mình, con có thể phải tạo hình ảnh để duy trì trước công chúng, nhưng chỉ có cả nhà ta ở đây. Không cần phải dựng lên vẻ bề ngoài trước mặt gia đình mình đâu.”
Nhóc Ellie phá lên cười khúc khích, nhưng tôi lờ con bé đi khi mẹ thả tôi ra và đi qua cổng vòm chỗ bếp. Bà ấy phải len nhẹ người qua nhóc Boo, thân cậu ta chiếm gần trọn gian bếp.
“Con muốn ăn gì không? Hay con sẽ rời gấp đi ngay giờ?”
Tôi đã cân nhắc việc phớt lờ lời yêu cầu của anh Bairon ít nhất một hay hai giờ để có thể dành thời gian với mẹ, nhưng việc anh ta đến đây, đến tận nhà chúng tôi, nhiều lần lúc tôi đi vắng khiến tôi cảm thấy không thoải mái.
“Con nên đi,” tôi nói. “Con mong là mình sẽ quay lại sớm. Nếu mẹ chiếm lại nổi gian bếp của mình thì con rất vui được ăn gì đó nóng hổi một tý.”
Bà ấy nói: “Ý con là nếu mẹ giành lại bếp được mà còn sót chút thực phẩm nào trong đó không,” và kiễng đầu ngón chân lên để ngó qua lưng nhóc Boo. “Vậy cứ đi tiếp đi. Thế giới có thể sụp đổ nếu thiếu con trong một giờ, nhưng gia đình ta thì vẫn chụm cả lũ lại với nhau.”
Vẫy tay chào, tôi đi về phía cửa nhà. Trên đường ra, tôi cẩn thận đá văng cái ghế kê dưới chân con em tôi đang gác, khiến nó nửa ngã ra khỏi ghế.
“Hêy!” con bé càu nhàu, búng một tia mana về phía tôi, nó phát ra tiếng xèo xèo khi đụng lớp aether phủ quanh da tôi.
Tôi cười lớn và mở cửa.
“Anh Art ơi?”
Tôi ngó lại. Bé Ellie đang trưng ra biểu cảm nghiêm túc dù mặt hơi ửng hồng.
“Cảm ơn anh, anh biết đấy, vì đã… cho em đi cùng, bảo vệ em và mấy chuyện khác nữa. Em—việc đó thực sự…ngầu đấy.”
“Anh cũng yêu em, El à,” tôi trả lời với một cái nháy mắt đầy hiểu chuyện, rồi rời đi.
Chuyến đi bộ tới Viện Earthborn chẳng có gì lạ xảy ra cả. Cậu đã im lặng suốt, tôi lưu ý với Regis khi đang đi. Thông thường, cậu ấy thích thoát ra khỏi người tôi ngay khi có thể, nhưng hiện giờ cậu ta vẫn duy trì hình dạng tinh linh wisp rồi trôi gần lõi tôi kể từ trước vụ phế tích cuối xảy ra.
“Tôi chỉ đang suy nghĩ thôi,” cậu ấy lưu ý thế, giọng nghiêm túc hơn bình thường. ‘Cái thế giới này loạn mẹ nó rồi.’
Tôi tỏ vẻ chế giễu. “Nó thật vậy mà, phải không.” Ký ức về đợt thử thách của người djinn tái hiện lại ngay trong mắt tôi, đeo bám lại ở đoạn thành phố kia chìm trong biển lửa.
‘Chỉ cần tạo ra những khoảnh khắc như này, cùng với gia đình cậu, cùng với Caera khi quay trở lại lục địa Alacrya… mọi thứ sẽ tốt hơn một chút xíu.’
Tất cả những gì tôi có thể làm là đồng ý, và chúng tôi tiếp tục đi trong im lặng.
Tại cổng học viện Earthborn, tôi ngó lên nhìn xuống con đường đại lộ nơi đầy người. Tôi đi đâu cũng luôn thu hút sự chú ý, nhưng lúc này tôi chẳng khao khát trở thành đối tượng cho những cái nhìn chằm chằm từ họ. Thế nên thay vào đó, tôi truyền aether vào ấn God Step.
Một mạng lưới gồm các đường màu tím liên kết với nhau xuất hiện, phủ đè lên hình ảnh thành phố trước mắt tôi, mỗi đường này kết nối hai điểm tạo thành một mạng lưới mà dường như chúng kết nối mọi điểm này với mọi điểm khác.
Giờ đây nhìn chúng, hiện đã có một sự thay đổi tinh tế trong quan điểm nhận thức của tôi, thiên về sự nhận thức những điều tiềm ẩn bên trong hơn là chú tâm đến bất kỳ thay đổi nào thấy được ở vẻ ngoài của các đường dẫn aether này. Khi tôi học được cách dừng lại chỉ để “thấu hiểu” các con đường và cách lắng nghe lẫn cảm nhận chúng theo sự hướng dẫn của bà Three Steps, lúc đó cảm giác như có một sự thay đổi rất mạnh mẽ về khuôn mẫu tư duy trong nhận thức sâu sắc của tôi. Còn giờ, tôi cảm thấy bắt buộc phải đạt được nhiều hơn là chỉ nhìn và nghe thấy chúng. Tôi muốn thật am hiểu chúng.
Các đường chạy aether không chỉ đơn thuần là những cánh cửa, là những công cụ được dùng để điều hướng thông thường..
Tôi giơ tay lên do bị thu hút bởi những dòng ánh sáng có màu thạch anh tím đại diện cho một chiều không gian khác. Mấy ngón tay của tôi giật giật khi giơ lại gần mấy đường dẫn hơn, và tôi cảm thấy sự co rút từ ấn godrune God Step kia khi nó phản ứng với ý định của tôi.
Phía ngoài mấy đường chạy aether này, có một luồng áp lực đang dần hạ thấp xuống chỗ tôi đứng khiến tôi lạnh cóng lưng.
Cánh tay của tôi quất về hướng nguồn năng lượng đang bay tới, aether cuộn quanh các ngón lẫn lòng bàn tay khi tôi hủy chiêu God Step.
Lượng aether cuốn quanh tay tôi mờ dần đi khi tôi nhìn thấy hình ảnh mơ hồ quen thuộc từ những chiếc lông vũ màu xanh ô liu.
Khi bóng của cái hình thể đang bay kia lùi dần đi, mới tôi thấy nổi thân dạng chim và chỉ duy nhất một chiếc sừng nhô ra từ đầu cú của nó.
Là con Avier, tôi nhớ rồi.
Con cú này từng là thú khế ước của bà Cynthia Goodsky, giám đốc Học viện Xyrus. Nhưng ông ta đã biến mất sau khi bà ấy bị tống giam và rốt cuộc là chết.
Con cú nói: “Tôi đã chờ cậu quay lại suốt từ đó tới giờ,” lắc lư cái đầu có sừng khi đáp xuống một cây cột.
Tôi nói: “Vậy là ông nói được à,” Hầu hết các thú khế ước có thể giao tiếp với người thuần hóa chúng, nhưng rất ít con có thể nói chuyện với bất kỳ ai khác. “Ông có phải người đang đợi tôi suốt từ đó đến giờ không?”
“Cậu đang bối rối,” Avier nói. “Tôi hiểu rằng mình bất ngờ xuất hiện, và có thể cậu sẽ lưỡng lự.”
Tôi nhướn mày. “Lưỡng lự, hoặc nghi ngờ, là một trong hai điều đấy.”
Avier nghiêng đầu khi nhìn tôi với cặp mắt tinh tường rộng mở. “Vào thẳng vấn đề nhé, Aldir gửi tôi đến đây.”
Tôi tỉnh người ngay lập tức, nhưng việc nhắc đến tên lão Aldir chỉ làm tăng thêm câu hỏi mà thôi. “Ông là thú khế ước của bà Cynthia. Tại sao ông lại làm việc cùng lão Aldir?” Tôi hỏi, giọng vội vã.
Con cú xù bộ lông xanh lên. “Tôi không làm việc với hắn ta. Nhưng tôi đã chờ đợi quá lâu rồi, Arthur à. Tôi cần cậu đi với tôi. Chúng ta có thể thảo luận thêm trên đường đi.”
Có chuyển động ở phía đường đại lộ thu hút ánh nhìn của tôi, chỗ có hai người lùn theo sau với một đội lính canh đang chạy vội về phía chúng tôi. Nhìn kỹ hơn, tôi nhận ra đó là hai gã Lãnh chúa Daglun Silvershale và Carnelian Earthborn. Tôi chỉ có thể đứng nhìn, rất là bối rối khi lão Carnelian vẫy tay ra lệnh cho đám lính dừng lại trong khi hai lão lãnh chúa người lùn này chạy chậm lại thành đi gấp trong khoảng năm mươi feet cuối gần tới tôi. Cả hai lão đều thở hồng hộc khi đến nơi, cúi đầu trước tôi rồi đến con cú.
Lão Daglun hắng giọng: “À, Ngài Avier, ngài bỏ đi nhanh đến nỗi chúng tôi chưa nói hết chuyện. Trước khi ngài rời đi, tôi muốn bày tỏ sự tôn trọng từ thành phố vĩ đại này và chào đón ngài quay lại bất kỳ lúc nào ngài muốn.”
Không chịu kém cạnh, lão Carnelian nói thêm, “Thật vậy, Viện Earthborn đây”—lão vẫy bàn tay chai sần về phía cánh cổng đằng sau chúng tôi—“sẽ rất hứng khởi tiếp đón ngài ở lại lâu hơn vào lần tới. Tôi tin rằng chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau nhiều điều.”
Đôi lông mày rậm rạp của Avier nhướng lên khi đầu ông ta quay nửa vòng để nhìn đối mặt họ. “Tôi e rằng mình không thấy điều đó xảy ra đâu, nhưng xin cảm ơn cả hai vì sự hiếu khách của các người. Tạm biệt.”
Hai lão lãnh chúa người lùn chỉ có thể nhìn chằm chằm, kinh ngạc, khi con cú nhảy lên không trung và bay đến vai tôi. “Ta rời đi qua cổng thứ ba hướng đông. Tôi tin rằng cửa đó sẽ đưa ta lên mặt đất nhanh nhất.”
Tôi suy xét và nhận ra mình thực sự không còn lựa chọn nào khác. Nếu có cơ hội gặp gã Aldir, tôi phải nắm lấy. Lên tiếng với các lãnh chúa người lùn, tôi nói: “Xin vui lòng thông báo cho ông Virion, các tướng Lance khác, và bà Alice Leywin rằng tôi sẽ rời thành phố này trong…” lời tôi nói tắt dần, nhướng mày dò hỏi con cú đậu trên vai.
“Ít nhất là vài ngày,” con cú trả lời.
“Dĩ nhiên rồi, thưa ngài Lance,” Lão Carnelian nói nhanh.
“Vậy còn cái người Alacrya kia thì sao, thưa Tướng quân?” Lão Daglun hỏi, bước tới gần chúng tôi hơn lão Carnelian vài inch.
Tôi nói: “Tướng Mica đã nghe chỉ thị của tôi và có thể chịu trách nhiệm về người tù nhân cho đến khi tôi trở lại,” không chắc tại sao lão Daglun lại nghĩ đến việc hỏi như vậy.
Hai lãnh chúa người lùn nhìn nhau trao đổi ánh mắt bối rối, nhưng tôi đã đi ngang qua họ hướng về phía đường đại lộ. Anh Skarn Earthborn, là người anh em họ với chị Mica, cũng nằm trong số các lính canh người lùn, và chúng tôi gật đầu với nhau một cái ngắn gọn.
Sự tò mò nổi lên từ cậu bạn đồng hành của tôi. ‘Tôi tự hỏi tên Aldir đã ở đâu suốt chừng đấy thời gian. Không thực sự dễ thấy gã ta, phải không? Nhưng nếu tên Windsom có thể giả làm gã chủ tạp hóa, vậy thì có lẽ gã Aldir cũng đang canh quán bar ở đâu đó chăng.’
Avier dẫn tôi đi lên đường đại lộ phía trên và ra khỏi một trong nhiều đường hầm bên lề đường. Từ chỗ đó, ông ta bay phía trước, dẫn tôi đến lối lên mặt đất gần nhất. Chúng tôi lên đến sa mạc cằn cỗi vào lúc nhá nhem tối, ngay lúc mặt trời đang lặn dần sau những đụn cát.
“Chúng ta sẽ định đi xa bằng cách nào?” Tôi hỏi khi Avier bay quay vòng vòng trên đầu tôi.
“Nếu cậu cho phép, thì tôi sẽ cõng cậu trên lưng, ” con cú nói, dừng lượn và đập cánh lơ lửng trước mặt tôi. “Đó sẽ là cách nhanh nhất.”
Tôi nhìn con cú màu xanh ô liu này thật cẩn thận. Nó lớn hơn chút xíu so với một con cú bình thường, nhưng vẫn đủ nhỏ để có thể thoải mái đậu trên vai tôi. “Và đó chính xác là cách nào chứ?”
‘Cách không thoải mái. Bằng cách nhón chân giữ thăng bằng.’ Regis tự cười khúc khích trước trò đùa của chính cậu ta.
Con cú phát ra âm thanh giống tiếng bò sát hơn tiếng chim, rồi bắt đầu lớn dần lên.
Đôi cánh của nó mở rộng ra với tốc độ nhanh chóng, những chiếc lông màu xanh ô liu biến thành những vảy cùng màu. Khi chiếc cổ ngắn kéo dài ra, những cái gai giống diềm lông chim mọc dọc theo sống lưng. Chỗ thịt dày, không có vảy ở đôi cánh và diềm lông có màu vàng kim nhạt. Cái mỏ ông ta mở rộng và dài ra, hóa thành khuôn mặt bò sát với cái miệng há hốc đầy răng nanh trông nguy hiểm, và hai chiếc sừng dài vuốt ngược ra sau đầu. Khúc cuối đôi chân cứng khỏe là móng vuốt cong như lưỡi hái, và chiếc đuôi nặng quẫy lủng lẳng lên trên bề mặt đá sa thạch.
Tôi nói: “Ông là một con wyvern…” nhớ lại những gì mình đã nghe về chúng. Chúng cực kỳ hiếm, được cho là hậu duệ của những con rồng hiếm khi tương tác với chủng người, chủng elf hay chủng người lùn. Ấy vậy mà, con này lại đi kết khế ước với một phụ nữ chủng người, và lại còn là một người gốc Alacrya nữa. “Tôi chưa bao giờ biết đấy.”
Avier nói: “Cynthia đã giữ bí mật về hình dạng thật của tôi theo yêu cầu của tôi,” giọng trầm hơn và êm tai hơn so với khi ở dạng cú. Tiếng đập cánh của ông ta hất tung cát quanh chúng tôi lên, nhưng một lúc sau ông ấy hạ cánh xuống, phần khớp trên đôi cánh nhô ra có móng vuốt cong vào trong để ông ấy có thể đi bằng chúng như hai chân trước. “Bây giờ, chúng ta sẽ có một hành trình dài phía trước.”
Tôi hỏi: “Chúng ta sẽ đi đâu đây?” nhưng chưa bước tới để trèo lên lưng ông ta.
Ông ấy thở hùng hục, và độ mạnh từ hơi thở thổi tóc tôi bay ra sau. “Nếu cậu không tin tưởng tôi, cậu đã không nên đi xa đến đây. Nhưng tôi sẽ nói với cậu. Aldir đang ở vùng Beast Glades. Tôi có thể trả lời thêm bất kỳ câu hỏi nào mà cậu có trên đường đi, nhưng có những thứ cậu nên biết đúng lúc và từ đúng nguồn nói.”
Tôi không biết ta có thể từ chối sao đây, tôi nghĩ, thăm dò quan điểm của Regis.
‘Nếu đây mà là bẫy, thì việc gửi một con thú mana kỳ lạ mà cậu chưa từng gặp lại kể từ lúc mười bốn tuổi là một cách đặt bẫy kỳ lạ đấy,’ cậu ta chỉ ra. ‘Điều tệ nhất là, tôi dám chắc cậu có thể biến trải nghiệm bị ăn thịt bởi một con thằn lằn bay dài ba mươi feet thành một kiểu tự rèn luyện nào đó.”
Tôi kìm nén thôi thúc đảo mắt chán chường khi nhận ra rằng ánh mắt vàng rực lửa của Avier đang chăm chú nhìn tôi. Sau một giây, tôi chịu thua không đoán nữa và nhảy lên lưng con wyvern, ngồi giữa hai rìa diềm tách riêng ra trên lưng.
Avier chẳng lãng phí thời gian, lao thẳng lên không trung rồi dang nhanh đôi cánh ra đón làn gió sa mạc nóng bỏng. Xoay vòng người, ông ấy quay lưng lại phía mặt trời lặn và bay như tên bắn về hướng tây.
Mặc dù nói rằng ông ấy sẽ trả lời các câu hỏi của tôi, nhưng trong khi bay chúng tôi nói rất ít. Ông ta di chuyển với tốc độ thậm chí có thể sánh ngang với bé Sylvie, và cơn gió thổi qua những cái gai tua rua ở sống lưng ông ấy hú vào tai tôi, nhấn chìm mọi thứ trừ những suy nghĩ của riêng tôi. Tôi cảm thấy mình đang bị cuốn vào một cơn mơ mộng buồn bã, chuyến bay trên lưng gã wyvern này làm thất bại gần đây trong việc mang bé Sylvie quay lại bị kéo lên vị trí quan tâm hàng đầu trong tâm trí tôi.
Tôi bắt đầu để ý hơn khi chúng tôi bay qua dãy núi chắn ngang để vào vùng Beast Glades. Khi những dốc đá nhường chỗ cho những khu rừng rậm rạp, tôi kích hoạt ấn Realmheart, cảnh giác bất cứ thứ gì đủ mạnh để trở thành mối đe dọa. Chúng tôi bay càng lâu, thì phong cảnh càng thay đổi; chúng tôi băng qua những bãi hoang mạc cằn cỗi vô hồn, những đầm lầy thối rữa và những hồ nước phẳng lặng như gương. Chúng tôi đang tiến vào khu vực trung tâm của vùng Beast Glades, nơi cư trú của những con quái thú cấp S khiến ngay cả gã Olfred Warender cũng phải khiếp sợ.
Mặc dù vậy, chẳng có gì làm phiền chúng tôi cả, một thực tế mà tôi cho là do chính Avier gây ra. Thú khế ước tiền nhiệm của bà Cynthia một lần nữa làm tôi ngạc nhiên, khiến tôi đặt câu hỏi rằng ông ấy thực sự có thể mạnh đến mức nào khi ông ta bắt đầu tỏa ra một quầng hào quang phòng vệ đáng sợ, cảnh báo bất kỳ con quái mana săn mồi nào đến quá gần chúng tôi.
Tôi hét lên trong gió: “Ông đã làm gì ở đây kể từ khi bà Cynthia chết?” cuối cùng cũng nói ra được câu tôi muốn hỏi từ lúc Avier hiện nguyên hình ở sa mạc Darv.
Ông ấy trả lời: “Trong khi bị giam cầm, cô ấy đã giải thoát tôi khỏi khế ước,” giọng dễ nghe khi trôi theo gió. “Cô ấy không muốn tôi liều mình tấn công lâu đài để giải thoát cho cô ấy. Tôi nghĩ rằng cô ấy đã hơi nghi ngờ về số phận của mình và không muốn tôi bị ràng buộc với cô ấy khi nó xảy ra. Theo yêu cầu của cô ấy, tôi rút lui về vùng Beast Glades.”
“Tôi rất tiếc,” Tôi nói đủ nhỏ để không mong ông ấy nghe được. “Bà ấy xứng đáng được tốt hơn những gì đã xảy ra.”
Avier phát ra tiếng kêu chói tai dường như cắt xuyên qua không khí giống một lưỡi kiếm. Khi con quái chết đi, ông ấy nói: “Cô ấy rất thích cậu đấy.”
Tôi chờ, nhưng gã wyvern này không nói thêm gì nữa, và bởi vậy nên tôi lại chìm vào sự im lặng đầy suy tư.
Không lâu sau, ông ấy bắt đầu bay thấp xuống khu rừng bên dưới. Những cái cây cao hàng trăm feet với tán lá rộng và thân dày như những tháp canh vươn lên đã chạm tới chúng tôi. Những chiếc lá màu cam cháy đung đưa liên tục trong gió, làm cho cả tán lá trông giống như một chiếc giường bằng than đang bốc cháy âm ỉ.
Tuy nhiên, khi chúng tôi đang bay chìm sâu xuống dưới những cành cây, bóng râm từ lá tối sâu như màn đêm u ám, và tầm nhìn của tôi gần như bị choáng ngợp bởi vô số các vi hạt mana. Những chiếc lá, cây cối, mặt đất, mọi khía cạnh trong sự phát triển của tự nhiên đều sống động với các hạt mana. Và thấp thoáng đằng xa, mỗi con vật mang một dấu hiệu mana mạnh mẽ, là những con quái thú mana có kích thước và sức mạnh ấn tượng.
Tuy nhiên, ngay cả những con thú mana cấp S này cũng bị ngăn cản tiến lại gần bởi quầng hào quang phòng vệ của Avier.
Đột nhiên chúng tôi lại lao xuống nữa, và tôi đã nghĩ cả lũ sẽ đâm thẳng xuống đất. Bóng râm đen sâu thẳm trong ánh sáng lờ mờ dưới các tán cây chỉ trở nên rõ ràng vào lúc trước khi chúng tôi xuống tới đó, và Avier tung cánh ra, đón một luồng gió nhẹ thổi bốc từ dưới lên và bay lơ lửng. Chầm chậm, chúng tôi hạ dần xuống một vết nứt tự nhiên đủ rộng cho hai con wyvern bay cạnh nhau.
Kỳ lạ thay, tôi không thể cảm nhận được tý mana nào ở bên trong khe nứt này, nhưng có một áp lực khó chịu đè lên màng nhĩ khiến tôi cảnh giác.
Khi chúng tôi gần chạm đáy, ngọn lửa bùng sáng lên ở những chiếc đèn treo quanh khe nứt, thắp sáng sàn nhà bên dưới, có lẽ nhờ vậy mà Avier không vô tình đâm sầm xuống mặt sàn.
Những thứ có màu trắng như phấn bao phủ sàn nhà, và khi Avier chạm tới mặt sàn, móng vuốt của ông ấy nghiền các mảnh vụn kêu lạo xạo. Đó là xương của hàng trăm con quái mana rải ra như trải thảm trên sàn nhà.
Tuy nhiên, Avier không để tâm đến điều này, bước lơ đễnh qua bãi xương đi vào một cái hang từ chỗ khe núi này thông ra. Hang động này có vẻ tối tăm và trống rỗng ngoại trừ một vài bộ xương nằm rải rác, cả bọn đi cho đến khi có thêm nhiều chiếc đèn treo tường thắp sáng ở phía đối diện, làm lộ ra một bộ cửa hai cánh lớn được chạm khắc từ gỗ đen nhám.
Tôi nói: “Một hầm ngục,” trượt khỏi lưng Avier và tiến đến gần cửa. Nơi hầu như khó thấy trong làn ánh sáng lờ mờ, trên bề mặt gỗ ở cửa có khắc một cảnh tượng gì đấy, nhưng do chỗ này quá tối và các hình khắc quá mờ nên chẳng thể đọc được. Tôi ngó lại vào đôi mắt vàng của Avier đang sáng lấp lánh trong bóng tối. “Lão Aldir ở đây à?”
“Phải,” Avier xác nhận. “Mặc dù chúng ta có thể phải chiến đấu trên đường đến chỗ anh ấy.” Vươn một cánh ra, ông ấy truyền một loạt xung mana phức tạp vào mặt cửa gỗ: một mật mã hoặc một kiểu tổ hợp khóa nào đấy.
Hai cánh cửa lặng lẽ mở ra, và hơi thở hôi thối của hầm ngục đổ ào vào người chúng tôi, nặng trĩu mùi của chết chóc và thối rữa. Regis hiện ra bên cạnh tôi, ngọn lửa từ bờm cậu ta thẳng cứng lên, giống như một con sói với bộ lông dựng đứng.
Kề vai nhau, tôi và Regis bước vào ngục tối. Avier theo sau với đôi cánh tự gập lại khi ông ta bước đi bằng các khớp đốt ngón tay. Khi những cánh cửa sau lưng chúng tôi đóng lại, nhiều ngọn đuốc hơn được thắp sáng bằng phép thuật, để lộ ra một căn buồng phòng rộng được chạm khắc bằng mặt đá sậm màu. Xương, và thậm chí một số các xác mới chết gần đây, được xếp thành hàng dọc các bức tường. Sàn nhà đầy những vết đen đặc cứng lại đang kêu lạo xạo dưới chân bọn tôi. Ngay khi các ngọn đuốc được thắp sáng lên, một bóng đen lướt qua đường hầm trần trông cao và mở rộng ra phía trước chúng tôi.
“Đây là đâu?”
“Chưa có mạo hiểm giả nào đến được hầm ngục này để đặt tên cho nó. Chúng tôi chỉ đơn giản gọi nó là Hollow’s Edge (Rìa Rỗng),” Avier trả lời. “Những thứ sống ở đây được gọi là tai ương đen (ebon scourges). Tôi dự định sẽ trở lại đây trước khi cái hầm ngục này tự tái lập lại, nhưng cậu đã quay về quá lâu.
Có một chút cảnh giác trong giọng nói của Avier khiến tóc gáy tôi dựng đứng.
Có thứ gì đó đang di chuyển trong đường hầm tối phía trước chúng tôi.
Tiếng đá kêu răng rắc, và một con quái mana đen tuyền có kích thước cỡ một con gấu lao ra khỏi bóng tối. Nó chạy bằng bốn chi vạm vỡ như một con khỉ đột, nhanh hơn nhiều so với kích thước của nó. Cơ thể của nó đen bóng như màu đá hắc diện thạch, với đầu hình cái xẻng không mắt nhô ra phía trước như vũ khí. Ba cái sừng cong vươn dài tới trước, một cặp mọc từ hai bên rìa cái đầu phẳng và một chiếc từ phía dưới, chỗ bình thường sẽ là cằm hoặc hàm dưới. Ở giữa ba cái sừng là một cái miệng há hốc đầy những chiếc răng vàng với kích cỡ to bằng mấy con dao găm tỏa sáng lấp lánh như đang cười rất hung dữ.
Avier lao qua chỗ tôi đứng, bay lướt tới trên cặp cánh giang rộng ra. Một cái móng giáng xuống cổ con tai ương đen, vốn chỗ cổ được bảo vệ bởi những phần xương từ đỉnh hộp sọ nhô ra sau có độ dài cỡ một nửa chiều dài cơ thể nó. Mặc cho có kích thước to lớn, con thú mana đã bị nghiền dí xuống dưới sức nặng của Avier, nhưng móng vuốt của ông ta chỉ cào xước qua phần bên ngoài lớp hộp sọ cứng như đá.
Đôi cánh vẫn mở rộng để giữ thăng bằng, Avier dùng móng vuốt còn lại đang rảnh của mình để xé toạc bên hông và bụng của con tai ương này khi nó đang vùng vẫy chống lại, nó vặn người vừa đủ để một bàn tay ba móng khổng lồ chụp lấy mắt cá chân của Avier. Mỗi móng có độ rộng bốn inch và dài gấp đôi độ rộng đó, và sau một hồi vật lộn giữa sức mạnh của con tai ương và lượng mana của Avier, con tai ương xuyên qua lớp vảy của Avier, trong lúc móng của Avier đang vật lộn để làm con tai ương bị thương.
Aether hình thành dưới dạng một thanh kiếm, và tôi dậm gót chân xuống sàn. Thế giới trong mắt mờ đi khi chiêu Burst Step đẩy tôi tới chỗ con quái mana, lưỡi kiếm mờ đục của tôi chọc thủng một lỗ trên hộp sọ dày của nó kèm theo tiếng răng rắc.
Ngay cả khi có một lỗ trên hộp sọ, con quái mana vẫn không giảm sự hung dữ, quật cánh tay to ngang thân tôi như huých một cái dùi từ máy phá cổng.
Tôi hạ cùi chỏ xuống để chặn đòn tấn công của nó, nhưng lực từ chấn động khiến tôi bất ngờ bị đẩy văng đi.
Regis ngay tức khắc đã nhào lên trên đầu nó. Với một trong mấy cái sừng của nó bị khóa cứng giữa hai gọng hàm, cậu ta vặn xoay vòng đầu nó. Con tai ương đen gầm lên giận dữ và thách thức, và cổ Avier ngoạm xuống như con rắn hổ mang đang tấn công. Hàm ông ta mở ra, và một luồng lửa màu ngọc lục bảo tràn vào cái miệng con tai ương đang mở.
Con quái mana run rẩy, da thịt nó rạn ra và nứt ở một số chỗ, làm cho luồng lửa uốn éo len lỏi được vào đấy.
Avier tiếp tục thổi lửa trong vài giây trước khi giảm cường độ đi. Khi phần thân đang bốc khói không cử động nữa, cả Avier và Regis đều lùi lại.
Tôi phủi bụi khỏi người và đến gần hơn để nhìn cái xác.
Phần thịt cứng được hình thành từ đất đá dầy đặc, giống một bộ khung xương bọc bên ngoài hơn là da.
Cái lưỡi mỏng dài của Avier thè ra liếm vết thương đẫm máu ở chân. Ngọn lửa cuộn lên từ chỗ đó, và lớp vảy lành lại. “Ta tiếp tục thôi.”
Trong khu vực kế tiếp ở hầm ngục, chúng tôi tìm thấy một căn phòng chia thành ba hướng khác nhau. Xác chết của những con tai ương đen nằm rải rác trên sàn và chất thành đống dựa vào tường. Một số con bị nát nửa người, lớp vỏ đá của những con khác khắc sâu dấu móng vuốt. Có con bị một cái sừng của con tai ương đâm xuyên qua cổ họng vào hộp sọ, chỗ cái sừng chắc chắn đã phá hủy lõi thú.
“Những con quái mana này có thường đánh nhau không?” Tôi hỏi Avier, nhưng đầu ông ta cứ xoay xoay và ông ấy không trả lời ngay.
Một tiếng gầm hoang dại vang xuyên hầm ngục đến từ đường hầm bên trái chúng tôi, và cả bọn chuyển sang tư thế phòng thủ, Regis ở ngay cạnh tôi, ngọn lửa của cậu ấy bùng lên, trong khi Avier vòng qua phía bên kia, khói cay xè bốc lên từ hàm ông ta.
Tạo ra một thanh kiếm mới và cố định thế đứng của mình, tôi chờ đợi khi những bước chân thình thịch nặng nề đang vang dội lại trong hành lang.
Ngoại trừ việc không phải là hình bóng mãnh thú có dáng bò chồm hỗm của con tai ương đen hiện ra.
Mà đó là thân tượng to lớn của một người đàn ông bước ra chỗ có ánh sáng yếu, bên cạnh là một con quái mana trông giống gấu, dễ là to gấp đôi nhóc Boo với bộ lông màu gỗ gụ đậm và những vết đen như sẹo dọc xuống gương mặt.
Avier giãn người ra. “À Evascir. Gặp anh thật mừng quá.”
Tôi nhận ra cái dáng người như tạc tượng ấy thực ra được bọc trong một lớp đá, giống như một con golem điều khiển được. Khi tôi nhận ra điều này, lớp hiện thân bằng đá vỡ vụn và một người đàn ông vạm vỡ bước ra. Đầu ông ta hói, da có màu đá vôi xám. Bên trong bộ giáp bằng đất thì ông ta cao tới mười feet, nhưng ngay cả khi không ở trong bộ giáp, ông ấy vẫn cao hơn bảy feet. Độ nặng từ quầng hào quang bao phủ người ông ta đủ để đè bẹp hết thảy mọi người xuống sàn.
Người đàn ông này là một asura.
Người đàn ông nói: “Thật đúng lúc, Avier à,” ánh nhìn của ông ta dừng lại chỗ vết thương của gã wyvern. “Vì anh vẫn chưa quay lại nên tôi quyết định dọn sạch hầm ngục. Tôi đoán mình đã bỏ sót một con.”
“Dẫu sao đi nữa, anh đã tiết kiệm khối thời gian cần thiết cho chúng tôi,” Avier bác lời. “Cảm ơn anh đã đến.”
Gã asura này gật đầu với gã wyvern trước khi nhìn tôi dò xét. “Đây là người mà cậu được gửi đi để tìm về à? Hy vọng rằng cậu ta mạnh mẽ như vẻ đẹp của mình.”
“Phải có lý do tôi mới gọi cậu ta là công chúa đấy,” Regis xen vào nói với nụ cười toe toét như sói con.
“Sự đoán định ban đầu của ông là một tiến trình kiểm tra đàng hoàng hay chỉ là sự quan sát dốt nát thế?” Tôi hỏi, bắt gặp ánh nhìn không chớp mắt của ông ta.
Gã asura này—thuộc chủng titan (khổng thần), tôi nghĩ vậy—phát ra một tiếng cười lớn, thoải mái và vui vẻ. “Không, chẳng phải một tiến trình kiểm tra gì, và có lẽ hơi chút thành kiến hơn là dốt nát, gã thấp kèm à (lesser).”
Ông ta ra hiệu cho con gấu đồng hành to quá khổ của mình, và nó tránh sang một bên, nhường đường cho Avier, Regis và tôi đi qua. “Lại đây. Ta hãy rời khỏi mấy cái hầm ngục hôi thối khốn khổ này và trở về nhà nào.”
Tác giả: TurtleMe
Người dịch: Nightmoonlight
Ghi chú của người dịch
- 1. Tóm tắt: Art và cả đội về nhà, thì Avier thình lình xuất hiện lôi đi gặp Aldir.
- 2. Ta có thể thấy chap này cuộc nói chuyện giữa hai lão lãnh chúa người lùn và Art là kiểu “ông nói gà, bà nói vịt”. Hai lão đề cập đến “người Alacrya” là Caera, nhưng Art thì không biết và chỉ nghĩ đang nói tới ả Lyra. Chính văn phong nói lấp lửng tiếng Anh đã gây nên sự hiểu nhầm này (dù cố tình theo ý muốn của tác giả). Nếu là văn phong Việt thì sẽ hỏi: “Thế còn ả người Alacrya đang bị giam trong ngục thì sao?” Thì sẽ khó nhầm hơn.
- 3. Ver.1: Mar-12th-2023; ver.2: May-6th-2023